Thứ Tư, 28 tháng 12, 2011

Bệnh anh hùng

Bệnh anh hùng

Dinh Le

Anh hùng không phải là điều xấu, nhưng khi nó trở thành một ám ảnh thường trực, đã biến thành bệnh. Ví dụ, giữ gìn cơ thể sạch sẽ để phòng bệnh, là thói quen tốt. Nhưng sợ vi trùng đến nỗi bị ám ảnh như nhà kỹ nghệ nổi tiếng Howard Hughes, là người bị bệnh hiểm nghèo, tiếng chuyên môn gọi là hypochondriac. Theo triệu chứng tỏ tường, Việt Nam đã mắc “bệnh anh hùng”. Tiếng chuyên môn viết tắt là HOC, do ở tiếng Anh Heroic Obsessive Compulsive Disorder. Bệnh [H]OCD hay “bệnh anh hùng” đáng sợ hơn tất cả các chứng bệnh khác. Người bị các bệnh khác, bao giờ cũng mong được chữa khỏi, và chịu khó chữa trị. Trái lại, người mắc bệnh anh hùng luôn tự hào về căn bệnh của mình, nên không thể chữa.

Mười năm qua, tôi đã lui tới Singapore bốn lần, nhưng các lần trước ít chú ý về tình hình tại đây. Một tháng ở đó trong lần chót vừa rồi, gặp đúng dịp đảo quốc này kỷ niệm bốn mươi năm ngày độc lập. Cũng trùng với dịp Việt Nam kỷ niệm sáu mươi năm cuộc Cách mạng tháng Tám, khiến tôi có ý định nêu ra mấy nhận xét đáng chú ý giữa Singapore và Việt Nam.

Không phải chỉ riêng tôi muốn so sánh Singapore với nước mình. Trong thời gian bão Katrina tàn phá, nhà bình luận thời sự nổi tiếng của báo New York Times là Thomas Friedman cũng có mặt ở Singapore. Ông đã viết hai bài trên trang bình luận của New York Times, và có những nhận xét về Singapore. Trong bài báo ngày 14-9, ông viết:

-“Nếu phải chọn bất cứ nơi nào ở Á châu để trải qua một trận bão, thì nơi đó nên là Singapore”.

Friedman nói như vậy, vì so sánh với nỗ lực của Mỹ cấp cứu nạn nhân bão Katrina, Singapore mau mắn và hữu hiệu hơn nhiều khi cứu nạn nhân sóng thần ở Nam Dương vào cuối năm ngoái. Được như vậy, vì trong việc chọn người vào các chức vụ then chốt ở Singapore, người ta không chọn theo tiêu chuẩn bồ bịch, như ông Bush chọn cựu giám đốc cơ quan cấp cứu liên bang (FEMA) Michael Brown, hay “hồng hơn chuyên” theo kiểu Việt Nam. Singapore chọn người theo tiêu chuẩn có khả năng nhất, và ít tham nhũng nhất. Để xứng đáng với khả năng và tránh tham nhũng, họ trả lương rất cao. Thủ tướng lãnh lương gần gấp ba lần tổng thống Mỹ, mỗi năm 1,1 triệu Mỹ kim; nhân viên chính phủ và thẩm phán Tối cao Pháp viện gần một triệu.

Friedman nhận xét rằng, vào buổi đầu, việc cai trị tốt rất quan trọng tại Singapore:

-“Vì đảng cầm quyền phải giành giựt tâm trí người dân với cộng sản, những người được tiếng là không tham nhũng và ân cần – khiến nhà nước phải cũng như vậy, hay khá hơn”.

Thật may mắn cho Singapore, cả phía cộng sản và không cộng sản. Nhờ những người không cộng sản nắm chính quyền mà Singapore được như ngày nay, và phe cộng sản nhờ không cướp được chính quyền nên ngày nay vẫn còn được tiếng là thân dân và không tham nhũng.

Trong bài thứ nhì vào ngày 16-9, Friedman viết về tình hình giáo dục tại Singapore. Theo ông, “chính quyền tại đây hiểu rằng, trong một thế giới phẳng (cả thế giới có thể thu gọn trong chiếc màn ảnh phẳng của máy computer), công việc có thể chạy đi bất cứ đâu thì khá hơn láng giềng chưa đủ. Cần phải đứng trên mọi người – kể cả chúng ta (Mỹ)”. Một hiệu trưởng cho biết:

-“...Chúng tôi đã nới lỏng đôi chút để cho phép học sinh nuôi dưỡng ý tưởng riêng của mình”, và “kiến thức có thể được tạo ra tại lớp học, chứ không phải chỉ đến từ thầy giáo”.

Vẫn theo Friedman, các học sinh lớp bốn và lớp tám tại Singapore đã đạt được điểm cao nhất trong các kỳ thi quốc tế về toán và khoa học do Timss tổ chức. Và sách toán của Singapore đã được trường Mỹ, nơi con gái ông theo học, sử dụng tại Maryland. Trong khi Singapore cố gắng vượt Mỹ về giáo dục, Việt Nam vẫn bắt buộc học sinh từ nhỏ đến lớn, muốn ra trường, phải học những môn “thầy không muốn dạy và trò không muốn học”, là môn “tư tưởng Hồ Chí Minh” và “lý thuyết Mác-Lê”. Ngoài ra, Việt Nam còn phí phạm nhân tài như kiểu tuyển những sinh viên ưu tú, gửi đi nước xã hội anh em Cuba, chịu cảnh đói rách, học những môn không phải sở trường của họ, như kinh tế và computer (theo phóng sự của báo Tiền phong, Hà Nội).

Bây giờ, xin trở lại âm vang hai lễ lớn của Singapore và Việt Nam. Cùng vào tháng Tám, một bên kỷ niệm 40 năm ngày độc lập (9-8), một bên kỷ niệm 60 năm ngày cướp được chính quyền (19-8). Việt Nam đi trước Singapore đúng 20 năm. Ngoài khác nhau về thời gian, còn khác nhau về người cầm quyền: Việt Nam có Đảng Cộng sản, với lãnh tụ Hồ Chí Minh; Singapore có Đảng Nhân dân Hành động (PAP – People’s Action Party), với lãnh tụ Lee Kuan Yew (Lý Quang Diệu).

Dân số Việt Nam hiện có 83 triệu rưỡi người. Dân số Singapore chỉ bằng số lẻ của Việt Nam, công dân thực thụ có ba triệu rưỡi, cộng với 700 ngàn người ngoại quốc tới làm việc, là 4,2 triệu. Nhưng Singapore đang sử dụng ba triệu rưỡi máy điện thoại di động, hơn Việt Nam một triệu đơn vị. Số ngoại tệ và vàng dự trữ của Singapore vào năm ngoái là 112,8 tỷ Mỹ kim, trừ đi số nợ phải trả cho ngoại quốc là 19,4 tỷ, nếu chia đều cho dân, mỗi đầu người được khoảng 26 ngàn Mỹ kim. Trong khi ấy, số dự trữ của Việt Nam là 6,51 tỷ MK, nếu trừ đi số nợ ngoại quốc là 16,55 tỷ, tính đổ đồng mỗi người dân phải mang nợ chừng hơn 100 MK. Bao giờ dân Việt Nam đông bằng dân Trung Quốc, số nợ mỗi đầu người phải gánh sẽ giảm xuống còn khoảng 10 MK.

Singapore chỉ cách Việt Nam hơn một giờ bay, tương đương khoảng cách Sài Gòn đi Hà Nội. Người dân Singapore cùng thuộc giống da vàng, chắc không thể thông minh và chịu khó hơn dân Việt. Singapore lại bị những điều kiện kém Việt Nam, như đất hẹp, không có tài nguyên thiên nhiên, và phải dùng tới bốn ngôn ngữ chính. Nhưng tại sao, độc lập sau Việt Nam 20 năm, ngày nay Singapore nằm trong số những quốc gia đứng đầu danh sách các nước trên thế giới, trong khi Việt Nam nằm chung với các nước dưới cuối? Hình như câu trả lời là chỉ vì hai tiếng “anh hùng” mà thôi.

Theo dõi Việt Nam kỷ niệm 60 năm Cách mạng tháng Tám, hai chữ “anh hùng” được nhắc tới nhiều hơn cả. Trước hết là diễn văn của Chủ tịch nước Trần Đức Lương tại Quảng trường Ba Đình vào sáng 2-9:

-“Nhìn lại những thành tựu vẻ vang của cách mạng Việt Nam 60 năm qua, chúng ta vô cùng tự hào về dân tộc ta, một dân tộc anh hùng... truyền thống yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân Việt Nam chính là những nhân tố cơ bản, cốt lõi làm nên sức mạnh vô địch của nhân dân Việt Nam trong thời đại mới”.

Rồi Chủ tịch:

-“vô cùng biết ơn và cảm tạ các bậc lão thành cách mạng, các bà mẹ Việt Nam anh hùng”,

trước khi kết luận:

-“Dân tộc Việt Nam anh hùng, nêu cao truyền thống tự tôn dân tộc, nhất định sẽ lập nên những kỳ tích mới...”

Báo Nhân Dân ngày 2-9, qua bài “Hà Nội, 60 năm nhìn lại” viết:

-“Trải qua 60 năm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hà Nội đã vươn lên mạnh mẽ, xứng đáng là thủ đô Anh hùng của nước Việt Nam Anh hùng”.

Và viết tiếp:

-“Ghi nhận những thành tựu của Hà Nội trong hơn nửa thế kỷ qua, Đảng, Nhà nước trao tặng danh hiệu cao quý Thủ đô Anh hùng”.

Bài báo kết luận:

-“...với truyền thống lịch sử nghìn năm văn hiến, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thủ đô phấn đấu hơn nữa, đưa thành phố Hà Nội trở thành thành phố hiện đại, là trung tâm chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật của cả nước, xứng đáng là thủ đô Anh hùng của nước Việt Nam Anh hùng.”

Sài Gòn, đã mất địa vị thủ đô từ hơn ba mươi năm, cũng được tặng danh hiệu anh hùng. Báo Tiền phong Online ngày 2-9 tường thuật:

-“Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã thay mặt Đảng, Chính phủ trao danh hiệu ‘Thành phố Anh hùng’ cho lãnh đạo TP.HCM. Tổng Bí thư nhắc đến truyền thống anh hùng của thành phố mang tên Bác Hồ kính yêu”

Tự ca tụng mình là anh hùng chưa đủ, mạng lưới chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 30-9 đã phổ biến lại bài bình luận của đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) ngày 29-8, mượn lời báo Mỹ để tự ca anh hùng:

-“Ngay ở Mỹ, Báo Bưu điện Washington, một trong những tờ báo có đông độc giả cũng vừa có bài khẳng định, chủ nghĩa anh hùng của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh giải phóng này đã khích lệ và tạo nguồn cho hàng triệu người trên khắp địa cầu, kể cả tại Mỹ, đấu tranh chống lại chiến tranh và cường quyền” (“Báo Bưu Điện Washington”, có lẽ là Washington Post, nhưng không nói rõ bài báo xuất hiện ngày nào, nên người viết không thể kiểm chứng).

Theo dõi Singapore kỷ niệm 40 năm lập quốc, không nghe thấy ai nhắc tới hai tiếng anh hùng. Thủ tướng Lee Hsien Loong (Lý Hiển Long, con Lý Quang Diệu), trong cuộc nói chuyện lâu hai tiếng rưỡi, [1] không có lần nào ông trực tiếp hay gián tiếp nhắc tới công nghiệp của bố Lý, cũng không hề đả động gần xa tới Đảng Nhân dân Hành động, là đảng cầm quyền từ năm 1959. Trong khi ấy, Chủ tịch Trần Đức Lương của Việt Nam, trong bài diễn văn quốc khánh, đã hãnh diện:

-“Tự hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc, tư tưởng và cuộc đời vẹn toàn của người mãi mãi là ngọn đuốc soi đường, là kho tàng vô giá của dân tộc ta cho hôm nay và cho cả mai sau. Sự cộng hưởng vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh, sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng Sản Việt Nam...”

Chính Hồ Chí Minh khi còn sống, cũng tự nhận mình là anh hùng. Trong dịp viếng đền Kiếp Bạc, nơi thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, họ Hồ đã xuất khẩu thành thơ:

-“Bác anh hùng, tôi cũng anh hùng”.

Trong hai cuối tuần lễ lạt ăn mừng độc lập, Singapore không nói tới thắng lợi, không nhắc tới kẻ thù. Thủ tướng Loong nhấn mạnh:

-“Được như ngày hôm nay là nhờ “nhân dân chúng ta, tư tưởng chúng ta, và hành động của chúng ta. Điều quan trọng hơn cả là chúng ta đã tạo được một tinh thần Singapore. Chúng ta can đảm nhưng nhân đạo, chúng ta tự tin nhưng không bao giờ tự kiêu”.

Trong khi đọc diễn văn, có lúc thủ tướng Singapore đã rưng rưng nước mắt, khi nhắc lại kỷ niệm khó quên, xảy ra trong dịp lễ độc lập năm 1968. Thời gian này, Việt Nam đã nổi tiếng thế giới với trận Tổng công kích Mậu Thân, với quyết tâm “giải phóng Miền Nam”, dù phải san phẳng dãy Trường Sơn và hy sinh hàng triệu người. Trong khi ấy Singapore đang bơ vơ, không biết sẽ làm gì để sống. Nước Anh, tuy đã trả độc lập cho Singapore, vẫn còn giữ lại căn cứ quân sự ở Seletar Air Base, hẹn đến năm 1971 mới ra đi. Nhưng đầu năm 1968, Anh quyết định rút sớm, khiến khoảng 150 ngàn dân trực tiếp hay gián tiếp làm cho quân đội Anh bị mất việc. Thu nhập của những người này bằng 20% tổng số lợi tức quốc gia. Singapore họp nhau kỷ niệm lần thứ ba ngày độc lập trong tình huống lo lắng như vậy. Sáng ngày 9-8, trời quang mây tạnh, nhưng trước khi cuộc lễ bắt đầu, mưa đổ tầm tã. Tất cả mọi người cố giữ nguyên hàng ngũ. Đó là niềm hãnh diện về sự quyết tâm, cũng là nỗi xót xa của Singapore trong lịch sử lập quốc của mình. Báo chí Singapore năm nay đã dành nhiều trang lớn, đăng bài vở, hình ảnh và phỏng vấn về lễ kỷ niệm mưa gió này. So với những trận mưa bom đạn mà dân Việt Nam phải chịu từ Bắc tới Nam, trải qua một trận mưa rào nhiệt đới, không bằng chuyện muỗi cắn. Nhưng với những người không muốn làm anh hùng, muỗi cắn cũng đau.

Trong khi Việt Nam sợ “diễn biến hòa bình”, Singapore chủ trương phải thay đổi, hay là chết. Thủ tướng Loong khẳng định:

-“Vì thế giới sẽ thay đổi, nếu Singapore vẫn như hiện nay, chúng ta chết”.

Trong khi Việt Nam cảnh giác về “bọn phản động trong nước”, và những “thế lực thù địch bên ngoài”, Singapore chủ trương xây dựng một “xã hội hợp quần” (inclusive society), thúc đẩy sự tham gia của mọi người trong nước, và sẵn sàng học hỏi từ các nước, kể cả Việt Nam. Thủ tướng Loong kể chuyện:

-“Tôi gặp một nhà vô địch Võ Nam Dương (silat), hỏi ông ta ai là đối thủ đáng sợ nhất tại cuộc tranh tài Á Châu SEA Games? Ông ấy nói Việt Nam. Tôi sốc. Tôi nói Việt Nam biết gì về Võ Nam Dương. Thái cực đạo, Kong fu, hay mấy môn võ cổ truyền Đông phương thì họa may, nhưng silat? Ông ấy nói đúng đấy. Từ con số không, họ bắt đầu học vào năm 1993, với hai huấn luyện viên Nam Dương. Mới đầu, không cơ sở, không vận động trường, không dụng cụ tối tân. Họ lấy mấy ống kim khí, buộc vào nhau thành khung, bọc lại, làm đệm, đấm đá, luyện tập vất vả. Sau vài năm, họ biết khá rồi, cho huấn luyện viên về, tự lo lấy. Bây giờ, họ là vô địch Đông Nam Á, đang nhắm chức vô địch thế giới. Và thứ võ này là môn thể thao hàng đầu ở Việt Nam”.

Ông Loong kết luận:

-“Chúng ta cần có một tinh thần như thế”.

Học võ mà bắt chước Việt Nam, đúng quá!

Singapore không có tài nguyên, một chút đất trồng rau cũng không có, ngay nước dùng hàng ngày còn lo thiếu. Tất cả mọi thứ đều phải nhập cảng. Chỉ còn vốn liếng đáng quý hơn cả là con người. Thay vì hy sinh con người để làm anh hùng, hay làm “nghĩa vụ quốc tế vẻ vang” như lời ông Trần Đức Lương, Singapore đã cố gắng chăm sóc và xây dựng người dân của mình để tạo một thành phố tiến bộ kiểu đệ nhất thế giới, nằm trong thế giới thứ ba. Singapore hiện nay là thành phố sạch sẽ vào hàng nhất thế giới. Người ta có thể đi bộ vẹt gót giày khắp phố lớn phố nhỏ, mà không sợ đạp cứt chó như ở Paris. Singapore cũng an ninh vào hạng nhất thế giới. Thẩm phán Tối cao Pháp viện David Souter bị tấn công khi đang chạy bộ gần nhà ở Washington DC, mới 9 giờ tối, vào cuối tháng Tư năm ngoái. Tôi từng bị móc túi ở New York, Paris, và bị người lái taxi lừa khi vừa ra khỏi phi trường Roma, nhưng hoàn toàn yên tâm khi di chuyển ngày hay đêm, đi bộ hay taxi tại Singapore.

Tuy tinh thần phục vụ của người Singapore hiện nay rất cao, ví dụ người tính tiền tại các chợ hay cửa hàng, mỗi khi trao đổi với khách, đều dùng cả hai tay và kính cẩn cúi đầu, miệng nói cám ơn, nhưng Thủ tướng Loong vẫn chưa hài lòng. Ông than rằng Singapore thiếu văn hóa phục vụ tự nhiên. Ông so sánh với người Thái, người Ấn, người Nhật, người Úc, mỗi khi gặp khách đều có lời chào trước khi vào việc, trong khi người Singapore hỏi ngay là mình có thể giúp gì, hay tệ hơn, là ông hay bà muốn gì. Ông đã coi việc phục vụ như một danh dự, và quyết định nâng cao phẩm chất phục vụ lên hàng quốc sách, trao cho một tổng trưởng chịu trách nhiệm. Trong khi Việt Nam nêu cao khẩu hiệu: “Noi gương Bác Hồ đời đời kính yêu”, khẩu hiệu mới của Singapore là “GST”, chữ đầu của “Greet, Smile and Thank” (CCC – Chào, Cười và Cảm ơn).

Giống như ông Reagan làm trong mỗi dịp đọc Thông điệp Liên bang, ông Lý Hiển Long đã giới thiệu, và kể những câu chuyện về mấy thường dân đặc biệt. Một trong những người được ông đề cao, là bà cựu thư ký 63 tuổi. Bà này vì hoàn cảnh, đã phải đổi nghề nhiều lần. Cuối cùng, nhận việc lau chùi cầu tiêu, kiếm thêm tiền để dành cho con đi hoc. Con bà không muốn, hỏi bà: Sao má hạ mình quá thấp như vậy? Bà trả lời, chùi cầu tiêu không làm mất nhân phẩm. Làm để sống, đâu có trộm cắp ai. Kết thúc câu chuyện, ông muốn mọi người “biết và tin rằng phục vụ là việc làm danh dự. Không phải là những việc thấp hèn”.

Qua việc Thủ tướng Singapore đề cao người chùi cầu tiêu, khiến tôi liên tưởng tới chuyện mới xảy ra tại trụ sở Liên Hiệp Quốc. Trong phiên họp thượng đỉnh cấp quốc trưởng tại Hội đồng Bảo an của khóa họp thứ 60, Đại Hội đồng LHQ ở New York vào ngày 14-9-05, ký giả của hãng Reuters, dùng ống kính nhìn xa, đã chụp được tay tổng thống Bush đang viết một cái note cho Ngoại trưởng Condoleezza Rice ngồi cạnh. Phóng ảnh to lên, đọc được mấy chữ của ông Bush, không phải chuyện sống còn của thế giới, mà là:

-“Tôi nghĩ rằng tôi cần đi cầu. Liệu có được không?” (I thinhk I may need a bathroom break. Is this possible?).

Điều này nhắc nhở mọi người một thực tế là, dù có quyền lực lớn chưa từng ai có được trong lịch sử loài người như ông Bush ngày nay, cũng không thể cưỡng nổi tiếng gọi của thiên nhiên. Vậy thì, hạnh phúc trong cuộc sống thường ngày, không nên đo bằng tiền bạc hay quyền cao chức trọng, hãy đo bằng chỉ số cầu tiêu.

Singapore là nơi nhiều cầu tiêu và sạch sẽ nhất thế giới. Washington, DC. nhờ có nhiều bảo tàng viện và đài kỷ niệm, nơi nào cũng đầy đủ cầu tiêu, nên cũng đỡ. Paris tệ nhất, vừa ít, thiếu vệ sinh, lại phải trả tiền. London khá hơn, nhưng vẫn không có nhiều. Tại New York, năm 1990, Trung tâm Công lý Đô thị (Urban Justice Center) đã kiện thành phố vì không cung cấp đủ nhà vệ sinh công cộng. Dù vậy, trải qua ba đời thị trưởng, kể cả thị trưởng nổi tiếng thế giới Giuliani cũng không thỏa mãn được nhu cầu này. Mới đây, ông thị trưởng Bloomberg đã chọn công ty Cemusa của Tây Ban Nha để thiết lập 20 nhà cầu trên đường phố.

Trong khi ấy, tại Singapore, nhìn chỗ nào cũng thấy dấu hiệu nhà vệ sinh. Tại các tiệm bán hàng lớn, nhà vệ sinh nhiều gấp hai gấp ba lần so với bên Mỹ. Ví dụ tại Tyson Corner, khu thương mại lớn nhất ở ngoại ô Washington, DC., khách của nhà bán hàng vào loại sang Nordstrom, nhiều khi từ tầng này phải qua tầng khác, kiếm mãi mới thấy WC. Tại Singapore, tiệm Takashimaya ở đường Orchard, trong cả 7 tầng, mỗi tầng đều có bốn nhà vệ sinh, hai nam, hai nữ. Ngoài số lượng, nhà vệ sinh Singapore còn có phẩm chất cao, chỗ nào và lúc nào cũng sạch sẽ. Lần đầu tiên tới Singapore, thấy ở đây đôi chỗ vẫn còn dùng loại bàn cầu kiểu cổ như ở Việt Nam, tuy cũng tráng men sạch sẽ, tôi bèn tìm hiểu, mới biết rằng, vì công chúng có nhiều người vẫn còn thích xài kiểu cổ. Vệ sinh hơn kiểu mới và đỡ phải lót giấy khi ngồi. Ngoài ra, còn cái thú hồi hộp khi sử dụng, phải tính toán, cân nhắc như một cao thủ thể thao, hay một nhà thiện xạ, rót sao cho trúng mục tiêu. Lần chót vừa rồi ở Singapore, tôi vào chỗ đi tiểu tại một tiệm bán hàng trên đường Orchard. Vừa đứng trước bồn, đang còn sửa soạn, chưa kịp trình diễn, đã thấy nước trong bồn tự động xịt cái ào. Nghĩ bụng chắc có trục trặc kỹ thuật. Trình diễn xong, nước tự động xịt lần nữa. Bán tín bán nghi, bèn đứng thử trước mấy bồn khác, thấy cái nào cũng xịt hai lần trước sau như vậy. Tuy đã ở Mỹ ba mươi năm, lúc ấy tôi có cảm tưởng mình như anh nhà quê lần đầu ra tỉnh.

Bây giờ, xin ghé qua “nước Việt Nam Anh hùng”. Rất tiếc, tôi đã không có mặt tại Việt Nam, để có thể nhận xét tại chỗ, như đối với Singapore. Tuy nhiên, những gì nêu ra sau đây, đều là những tài liệu chính thức đã công bố từ Việt Nam. Theo báo DanTri.com.vn, du khách ngoại quốc đã phiền hà rất nhiều, vì Việt Nam thiếu nhà vệ sinh công cộng. Những nơi có nhà vệ sinh thì bị đòi tiền quá giá chính thức. Những nơi không nên có nhà vệ sinh, thì lại có, như cạnh chỗ nấu ăn, khiến thực khách từ chối không ăn. Vẫn theo báo này, một doanh nhân đã khuyên:

-“Khoan hãy nói tới những chuyện to tát khác, khoan hãy tốn tiền cho những chuyến đi quảng bá hình ảnh du lịch ở nước ngoài, nếu chưa lo được... cái W.C cho du khách!”

Trong khuôn khổ kỷ niệm 60 năm Cách mạng tháng Tám, ngày 18-8, Bộ Ngoại giao Việt Nam long trọng công bố cuốn sách “Thành tựu bảo vệ và phát triển con người ở Việt Nam”, dư luận quen gọi là Sách trắng về Nhân quyền. Cuối mục “Bảo đảm quyền về y tế”, sách ghi nguyên văn:

-“Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng hố xí hợp vệ sinh năm 1995 là 27,33% (thành thị 54,9%, nông thôn 17,3%), năm 2000 là 44,07% (thành thị 81,77%, nông thôn 32,49%).”

Những con số này nói gì? Con số đầu cho biết trong nửa thế kỷ dưới quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chỉ có hơn một phần tư trong số gần 80 triệu nhân dân Việt Nam anh hùng được sử dụng hố xí hợp vệ sinh, còn hơn 50 triệu dân vẫn phải bài tiết một cách thiếu vệ sinh. Con số thứ nhì cho thấy, 55 năm sau khi cách mạng thành công, hơn một nửa nhân dân anh hùng vẫn chưa có được cái hạnh phúc nhỏ nhoi là sử dụng hố xí hợp vệ sinh.

Năm ngày sau lễ Độc lập 2-9, từ “thủ đô Anh hùng của nước Việt Nam Anh hùng” (chữ của báo Nhân Dân), trong khi trả lời một bài phê bình, nhà văn Dương Thu Hương, mới đi ngoại quốc về, nói rằng:

-“Tôi trở lại Việt Nam là để ỉa vào mặt kẻ cầm quyền”.

Thú thật, lúc đầu tôi hơi bị sốc khi đọc câu này. Nhưng nghĩ lại, tôi thấy chẳng qua cũng chỉ là phản ứng tự nhiên của nhà văn. Đảng đã cầm quyền 60 năm, hy sinh xương máu của vài ba triệu người, hy sinh hạnh phúc của vài ba thế hệ. Kết quả: hơn nửa số nhân dân vẫn không có nổi một hố xí hợp vệ sinh. Vậy, chỉ còn cách dùng ngay mặt kẻ cầm quyền làm hố xí. Chỉ e rằng cách giải quyết này cũng không hợp vệ sinh.

Sự khác nhau giữa Singapore và Việt nam đã phản ảnh rõ qua lời tuyên bố tiêu biểu của nhà lãnh đạo hai quốc gia trong lễ độc lập của mình. Tuy được xếp ngang với các nước hàng đầu thế giới về nhiều phương diện, Thủ tướng Lý Hiển Long vẫn tuyên bố:

-“Singapore chúng ta không có một văn hóa phục vụ tự nhiên...chúng ta còn phải cố gắng nhiều để đạt trình độ thế giới...” (In Singapore, we don’t have a natural service culture... we have a long way to go to reach world class...).

Trong khi Việt Nam xếp hàng với những nước cuối danh sách về nhiều phương diện, Chủ tịch Trần Đức Lương tuyên bố:

-“Dân tộc Việt Nam anh hùng, nêu cao truyền thống tự tôn dân tộc, nhất định sẽ lập nên những kỳ tích mới...”

Nhiều người thắc mắc, tại sao dân tộc Việt Nam thông minh, cần cù và hy sinh nhường ấy, vẫn không thể tiến bộ? Nhưng thử hỏi lại, mang trọng bệnh 60 năm, chưa chết đã là may, còn mong chi tiến bộ? Trong dịp kỷ niệm 40 năm độc lập, báo chí Singapore phỏng vấn nhà lãnh đạo lão thành Lý Quang Diệu về tương lai đất nước, ông trả lời:

-“Chúng ta đã không phung phí 40 năm qua và không lý nào chúng ta không thể phát lên được.” (We’ve not wasted the last 40 years and there’s no reason we can not make this breakthrough) .

Việt Nam đã phí phạm 60 năm qua, làm sao để phát lên được?

__._,_.___

Thứ Ba, 6 tháng 12, 2011

Đọc cho biết

Xin chuyển một chuyện có thật để thấy cách thị hiện của vô hình, lý đạo về nghiệp quả.
Chánh

Chuyện Có Thật Trong Gia Đình Tôi


Vĩnh Khanh

      Má tôi phải nói là một người rất ghét chuyện đồng bóng, ma quỷ, bói toán... như vậy mà chuyện lại xảy ra ngay vào Má tôi. Tôi có một đứa em ruột, nếu nói theo kiểu người miền Nam, là cô em thứ Tư trong gia đình, chết đúng vào năm 12 tuổi. Lạ một điều là ngày chết của cô ấy so sánh với ngày, giờ năm sinh là vừa tròn một con Giáp, không thừa thiếu chút nào. Sau khi cô ấy chết được mấy năm, bỗng tự nhiên trở về nhập qua xác của Má tôi làm cho mọi người trong nhà hết hồn, nhưng sau nhiều lần như vậy dần dần gia đình cũng quen đi và không còn sợ nữa. Khi về cô cho biết là một nhân vật ở cõi trên  (có chức sắc và danh hiệu đàng hoàng, nhưng tôi không muốn nêu lên đây). Cô ta cho biết vì có nhân duyên nên đã đầu thai vào trong gia đình chúng tôi... sau khi ở đúng một con Giáp (12 năm) thì hết nhân duyên nên về lại cõi trên... Nay vì muốn tạo phước cho bá tánh nên về lại trần gian, mượn thân xác của Má tôi để cứu người đời...

      Tôi còn nhớ, mỗi lần về như vậy, cô bảo đốt cho cô nguyên một bó nhang lửa cháy đỏ hừng hực, rồi cầm bó nhang đang cháy vuốt qua lại trên tay, trên mặt (dĩ nhiên qua thân xác của Má tôi lúc đó, vậy mà sau khi cô ta xuất đi, Má tôi không bị một chút phỏng, hoặc thương tích gì hết).... Ban đầu cô chỉ giúp người nhà chữa bệnh, mà điển hình đầu tiên là chữa bệnh tim cho Má tôi. Má tôi có bệnh tim rất nặng, đi bác sĩ nào cũng đều bó tay. Bệnh tim của Má tôi nặng đến nổi chỉ cần có một người nào đó nói hơi lớn tiếng một chút, hoặc giả ai làm rớt bể một vật gì ngay bên cạnh, là đủ để bà ta xỉu rồi. Các bác sỉ chẩn bệnh cho Má tôi bảo rằng bà không thể sống quá một năm, nếu không được thay tim. Năm đó là năm 1969, gia đình tôi đang ở Nha Trang... vậy mà từ đó đến nay đã hơn 35 năm, sau khi cô em tôi về chữa cho Má tôi, bà vẫn còn sống…

      Cô em tôi về chỉ dùng nhang khoáng vào ly nước lạnh và dặn sau khi cô ta xuất đi khỏi xác của Má tôi thì cho Má tôi uống liền… làm như vậy vài lần, đồng thời cô ta dặn người nhà đi ra đồng, kiếm giây chùm bao, nhổ cả thân, rể, lá mang về xắt nhỏ ra rồi đem phơi khô, sau đó nấu nước uống thay cho nước trà mỗi ngày… Ở nhà làm đúng như cô dặn, sau một thời gian bệnh tim của Má tôi không hiểu tại sao gần như không còn hoành hành Má tôi nữa, các bác sĩ khám lại cho bà cũng rất là ngạc nhiên, vì chính các vị này trước đây đã từng chẩn đoán cho Má tôi và kết luận rằng Má tôi sẽ không thể nào qua khỏi nếu không được thay tim... dần dần hàng xóm láng giềng biết được, kéo sang nhà van vái cầu xin cô em tôi về để chữa bệnh.

      Cả gia đình lúc bấy giờ thật là rầu, cứ chiều chiều sau khi cơm nước xong thì hàng xóm và ngay cả những người ở thật xa nghe đồn, đã đến chật  hết cả nhà… Ba Má tôi và anh em chúng tôi không muốn bị quấy rầy không khí gia đình sau một ngày làm việc vất vả... vì bà con cứ đến hàng ngày như vậy chịu sao nổi, một khi cô em tôi nhập về thì cũng phải hết mấy tiếng đồng hồ, bữa nào cũng khuya trờ khuya trật mới đi ngủ được... nhưng nghe bà con than van, cầu khẩn quá, Má tôi không còn biết làm sao hơn, đành phải cho họ vô nhà. Đôi khi chịu hết nổi, Ba Má tôi phải thắp hương cầu xin cô em tôi đừng về nữa, nhưng cô ấy vẫn cứ nhập về hoài và chữa bệnh cho không biết bao nhiêu là bệnh nhân, chỉ bằng vào phương pháp đơn giản dùng nhang khoáng vào ly nước lạnh hoặc vào các cây cỏ tầm thường... vậy mà hầu hết các bệnh nhân đều khỏi cả mới là lạ và tuyệt đối không lấy của ai một đồng bạc nào... cũng có nhiều người để tiền lại, nhưng cô em tôi la hét dữ lắm và bắt cầm tiền lại hết. Khoảng năm 1969, 1970 gia đình tôi ở đường Hùng Vương, Nha Trang rất nổi tiếng về chuyện này.

      Sau đó gia đình tôi đổi về Saigon. Ba tôi mua một căn nhà ở cư xá Tô Hiến Thành, gần trường đua Phú Thọ, của một ông Đại Úy trong QLVNCH. Nhà ông này rất dài, ông ta cắt ngang phân nửa bán cho gia đình tôi. Hai bên vẫn qua lại với nhau hàng ngày rất thân tình. Trong thời gian này, thỉnh thoảng cô em tôi cũng có nhập về… Năm 1973, trong một chuyến công tác bằng trực thăng bị địch quân bắn rớt, ông Đại Úy này đã tử trận, không để lại một lời trăn trối nào cho vợ con...  Ông ta chết được khoảng vài tháng thì một đêm cô em của tôi lại nhập về qua xác Má tôi nữa, chuyện vãn một hồi cô em tôi bảo đi gọi bà vợ ông Đại Úy đến để cô có chuyện giúp cho... Sau khi bà vợ ông Đại Úy sang, cô hỏi bà ta có muốn chồng bà về thăm hay không??... bà này sợ quá, chưa biết trả lời ra sao. Chúng tôi vì đã chứng kiến chuyện lạ nhiều lần rồi nên không có gì ngạc nhiên hết, vì thế cả nhà thúc dục bà ta xin cô em tôi cho chồng bà về thăm đi. Trong bụng bán tín bán nghi, bà ta đã xin thử cô em tôi. Cô ta nói được rồi, hãy chờ đó đi cô ta sẽ dẫn cho về gặp mặt… nói xong cô xuất đi.  Một lúc lâu sau, ông Đại Úy nhập về qua xác của Má tôi. Lúc đầu mọi người không ai biết đó là ông ta, nhưng sau khi thấy bà vợ và mấy đứa con nhỏ ngồi trước mặt, ông ta khóc òa và sau đó là những lời kể lể, thì cả nhà mới biết đó là ông.

      Chuyện làm cho mọi người giật mình là, có những chuyện chỉ có vợ chồng ông ta biết thôi chứ người ngoài không thể biết, đã được ông nói ra qua xác của Má tôi lúc bấy giờ... Đồng thời có một chuyện như sau xãy ra ngay lúc đó mà tôi còn nhớ rất rỏ: Đó là ông Đại Úy có cho bà vợ biết là ông có dấu một số tiền ở sau vách tủ đựng quần áo mà bà này trước đây không biết. Ông ta bảo bà chạy về xem coi còn tiền ở đó hay không? Đồng thời nếu nhà còn rượu thì mang cho ông uống với vì ông thèm rượu quá. (Khi sinh tiền ông này uống rượu như hũ chìm). Bà vợ sợ quá tay chân run lẩy bẩy, không dám về nhà một mình, phải rủ chị giúp việc cho nhà tôi đi cùng...

      Một lúc sau thì bà ta trở lại với một gói tiền, được gói cẩn thận trong tờ giấy báo và một chai rượu Johnny Walker. Bà ta sợ đến nổi mặt mày tái mét, chân đi không muốn nổi, chị giúp việc cho gia đình tôi phải dìu bà ta đi. Sau đó bà rót rượu vào một ly cối, ông chồng bảo rót nhiều nhiều cho ông uống vì ông thèm quá và sẽ không có cơ hội uống nữa... cho nên bà vợ vừa khóc vừa run rẩy rót gần đầy cái ly cối đó, đến nổi chúng tôi phải cản lại. Ông Đại Úy qua thân xác của Má tôi, cầm ly rượu uống liền một hơi như người ta uống nước lạnh… Lúc đó tôi chứng kiến cảnh đó cũng hoảng hồn vì Má tôi không biết uống một giọt rượu nào cả. Ngay sau khi vừa uống xong ly cối rượu, bỗng ông ta trông có vẻ khúm núm sợ hãi lắm... lắp bắp nói với vợ rằng ông ta vừa bị quở trách là tại sao lại uống rượu, ông đã uống rượu là phạm luật và không thể ở lâu được, ông nói xong òa lên khóc và ôm hôn vợ con rồi bỗng dưng xuất đi.

      Lập tức ngay sau đó cô em của tôi nhập về với một vẻ giận dữ chưa từng thấy và la mắng bà vợ của ông Đại Úy quá trời, cô ta bảo rằng trong thời gian này ông ta không thể hưởng dụng bất cứ thứ gì của dương thế, cho ông ta uống rượu chỉ là hại ông mà thôi... Cô ta còn nói trước khi xin cho về thăm vợ con, ông ta đã được dặn dò rất kỹ là không được hưởng dụng bất kỳ thứ gì cả, như vậy mà cũng làm sai... Bà vợ và các con của bà ta lạy như tế sao năn nỉ xin đừng phạt ông ta. Cả nhà tôi cũng năn nỉ xin cô em tôi cứu giúp dùm. Cô em tôi vẫn nổi giận đùng đùng, cho biết việc này ngoài khả năng của cô và chính cô cũng bị ảnh hưởng bởi chuyện này nữa. Sau đó với thái độ còn rất giận dữ, cô ta xuất đi.

      Thật lâu sau khi cô ta xuất đi cả nhà vẫn còn bàng hoàng sợ hãi. Má tôi trở lại con người thật và lạ lùng là bà không bị ảnh hưởng của ly cối rượu Johnny Walker đó chút nào cả, ly rượu mà tôi nghĩ ngay cả tôi lúc đó còn thanh niên, nếu uống một hơi như thế cũng sẽ nốc ao tôi dễ dàng.

       Một câu chuyện khác về cô em linh thiêng trong gia đình chúng tôi, nó kỳ lạ đến độ nếu như tôi không chứng kiến và không phải là người trong cuộc thì tôi cũng nghĩ là hoang đường. Chuyện lần này ảnh hưởng trực tiếp tới vợ chồng tôi. Lúc đó vào khoảng đầu tháng tư năm 1973, tôi vừa mới cưới vợ được mấy tháng. Một đêm cô em tôi nhập về, cả nhà tôi lúc đó đã quá quen với chuyện này rồi nên không ai thấy sợ nữa, ngoại trừ vợ tôi. Năm đó tôi đã đi lính rồi, đơn vị đóng tại Phan Rang lâu lâu mới về phép một lần, vợ tôi cùng theo ra ở ngoài Phan Rang với tôi. Nhân kỳ về phép nên tôi dẫn vợ về thăm Ba Má và các em bên gia đình tôi.

      Mới lấy nhau mấy tháng, lại ít khi về bên chồng, vợ tôi chưa bao giờ chứng kiến cảnh như vậy hết cho nên rất là sợ hãi khi thấy cảnh cô em tôi về qua xác của Má tôi cầm bó nhang lửa đỏ rực vuốt lên tay, mặt… mà không bị phỏng… cảnh tượng kỳ quái như vậy bảo sao một cô gái mới lớn lên không hãi hùng cho được. Vợ tôi sợ quá kéo tôi ngồi xa xa chứ không dám ngồi gần. Sau khi chuyện vãn với mọi người chung quanh một hồi, bỗng cô em tôi chỉ tay về phía vợ chồng chúng tôi đang ngồi, ngoắc vợ tôi bảo tới gần, vợ tôi sợ điếng hồn không dám tới.

      Tôi và mấy cô em gái tôi phải trấn an vợ tôi là:

      -Không có gì đâu, hãy lại cho Kim Liên hỏi chuyện đi. (Cô em tôi lúc sinh tiền tên Thu, nhưng sau khi chết, nhập về cô ta cho biết ở cõi trên cô ta tên gọi Kim Liên, ngoài ra còn có chức sắc đàng hoàng).

      Tôi phải kéo tay vợ cùng lên ngồi phía trước cho vợ tôi đỡ sợ. Cô em tôi ngắm nhìn vợ tôi hồi lâu, và hỏi vợ tôi rằng: - Chị có biết Kim Liên là ai không? Vợ tôi ấp úng trả lời: - Không biết Cô ta cười: - Kim Liên là em của chị nè, chị không biết sao? Chị ngước mặt nhìn Kim Liên đi, Kim Liên giúp cho chị, chứ không hại chị đâu, chị đừng sợ. Vợ tôi rụt rè ngước mặt lên nhìn. Cô em tôi bỗng dùng bó nhang cháy hừng hực khoáng khoáng trên mặt vợ tôi và bấm đốt ngón tay tính toán gì đó một hồi rất lâu không nói câu nào. Cả nhà hồi hộp chờ đợi không biết chuyện gì. Một lúc lâu sau cô ta bảo vợ tôi rằng: - Kim Liên giúp chị chuyện này, chị phải nhớ làm đúng theo lời của Kim Liên, không được sai. Ngày mai chị đi mua cho Kim Liên xin một cành huệ trắng, chỉ một cành mà thôi không cần mua nhiều, về nhà chị cắm vào trong một ly nước lạnh, đặt trên bàn và nhớ nói như vầy: "Kim Liên ơi Kim Liên, chị cho Kim Liên cành huệ nè". Cứ kêu tên Kim Liên và nói y như vậy ba lần, xong đợi khi nào có một bông huệ rụng xuống thì lấy bông đó đốt cháy thành than, tán nhuyễn, trộn với nước lạnh rồi uống hết nó. Chị nhớ kỹ chưa? Vợ tôi sợ quá, không biết chuyện gì xảy ra, chỉ biết ấp úng gật đầu. Tôi cũng thấy kỳ, nên chen vào hỏi: - Chuyện gì vậy, Kim Liên có thể cho biết được không? Cô em tôi trả lời không được. Sau này sẽ cho biết còn bây giờ thì cứ làm đúng theo lời của cô ấy dặn. Sau đó cô quay qua nói chuyện với những người khác và không nói thêm lời nào với vợ tôi nữa. Cả đêm đó vợ tôi sợ quá  thức suốt đêm không ngủ được. Qua hôm sau, vợ tôi đi chợ mua ngay một cành huệ và làm đúng như lời cô em tôi đã dặn đêm qua. Cả ngày hôm đó vợ tôi cứ ngồi canh xem bông huệ có rụng không, chờ cả ngày mỏi mòn không thấy gì hết. Tôi thì bực dọc vì ngày về phép đâu có bao nhiêu, mà vợ tôi vì chuyện này không đi chơi được với tôi ngày hôm ấy để cuối cùng gần hết ngày rồi mà có thấy bông huệ rụng gì đâu.       Tôi còn nhớ lúc đó khoảng gần 5 giờ chiều, chị giúp việc cho nhà tôi đang nấu cơm sau bếp, bỗng chị ta gọi vợ tôi nhờ giúp dùm chuyện gì đó. Vợ tôi đi xuống bếp không bao lâu sau trở lên nhà trên liền, thì đã thấy một bông huệ rụng xuống bàn hồi nào không hay. Vợ tôi sợ quá mặt mày tái mét, la lớn lên kêu tôi. Lúc đó tôi đang nằm trên võng đu đưa ở trước nhà, nghe tiếng la cũng hoảng hồn chạy vào xem. Cành huệ có rất nhiều bông, nhưng chỉ có một bông rụng mà thôi. Vợ tôi chờ cả ngày không thấy bông nào rụng hết, vậy mà chỉ vắng mặt trong một khoảng thời gian rất ngắn, lại rụng ngay vào lúc không ai có mặt ở đó. Đúng là kỳ lạ thiệt!!! Sau đó vợ tôi làm đúng lời dặn, đem bông huệ đó đốt thành than, giã nhuyễn ra và pha với nước lạnh uống hết. Bẵng đi một thời gian sau không thấy có chuyện gì xảy ra, ban đầu chúng tôi còn để ý trông ngóng nhưng dần dần rồi cũng quên đi chuyện này. Tôi vẫn tiếp tục đời lính của mình ở đơn vị, còn vợ tôi lúc này đã có thai bụng lớn lắm rồi, cho nên để ở lại Saigon với gia đình bên vợ để Má vợ tôi chăm sóc. Cuối năm 1973, vợ tôi bất cẩn té từ thang lầu xuống, cái thai bị động mạnh phải đưa vào bệnh viện Hùng Vương cấp cứu, sau đó vợ tôi bị sanh non, thai nhi lúc đó chỉ khoảng 6 tháng rưởi. Tôi được điện tín ở nhà cho hay nên tức tốc xin phép về ngay. Khi vào thăm vợ tôi ở bệnh viện Hùng Vương thì vợ tôi đã sanh rồi. Con đầu lòng của tôi là một bé gái sanh ra quá yếu nên phải nằm lồng dưỡng nhi trong một phòng khác để được chăm sóc đặc biệt, nhưng chưa tới 24 tiếng đồng hồ sau thì con tôi mất. Tôi và cả nhà biết được chuyện buồn này, nhưng dấu vợ tôi vì sức khoẻ của vợ tôi quá yếu. Để cho vợ tôi yên lòng, tôi chỉ nói là con vẫn mạnh khoẻ nhưng vì sanh thiếu tháng nên bác sĩ cần phải chăm sóc riêng đặc biệt mà thôi. Qua hôm sau tôi lại vào thăm vợ tôi trong bệnh viện thì gặp bà bác sĩ đã đỡ đẻ cho vợ tôi trong ca cấp cứu vừa qua. Bà ta có cho tôi biết trong hơn hai chục năm kinh nghiệm trong nghề sản khoa, chưa bao giờ bà ta gặp một trường hợp lạ lùng như trường hợp của vợ tôi. Tôi hỏi trưòng hợp của vợ tôi như thế nào mà lạ lùng. Bà ta nói khi đỡ đẻ cho vợ tôi thì phát hiện vợ tôi có hai cái nhau. Một cái cho đứa bé gái đã được sanh ra, còn cái nhau kia teo tóp lại. Bà ta nói có 2 cái nhau tức là có song thai nhưng trong trường hợp này chỉ có một em bé mà thôi, trong khi cái nhau kia không phát triển được vậy mà tại sao lại không ảnh hưởng tới cái nhau thứ nhất và em bé gái vẫn phát triển bình thường… Tôi nghe thì nghe vậy thôi chứ không để ý lắm, vả lại lòng dạ rối bời qua tai nạn đứa con đầu lòng vừa mất, vợ bệnh còn nằm đó thì tâm trí đâu mà để ý đến chuyện bà Bác sĩ nói làm chi… Sau khi vợ tôi qua cơn nguy hiểm, bác sĩ cho xuất viện. Mọi chuyện dần dần trở lại bình thường sau cơn đau buồn vừa qua. Chờ đến khi sức khoẻ của vợ tôi hồi phục tôi đưa vợ tôi trở ra đơn vị sống như trước, mọi người gần như quên bẵng đi câu chuyện cô em tôi nhập về và câu chuyện bông huệ mấy tháng trước …

      Đầu năm 1974  tôi về phép, hai vợ chồng về thăm Ba Má tôi, đêm đó cô em của tôi nhập về nữa, lần này cô em tôi cũng ngoắc vợ tôi đến trước mặt vừa cười vừa  nói rằng:

      - Chị có biết là Kim Liên đã cứu chị hay không? 

      Vợ tôi và cả nhà ngạc nhiên không biết cô em tôi nói gì? Cô em tôi lúc đó mới nhắc lại chuyện trước đây và cho cả nhà hay rằng, lần đầu khi nói chuyện với vợ tôi năm trước, cô ta đã biết vợ tôi cấn thai rồi, mà lại là song thai, lúc đó cơ thể của vợ tôi ốm yếu lắm, cô đã biết là cái thai sẽ không "đậu", chúng tôi sẽ mất cái thai này, nhưng với cơ thể yếu đuối của vợ tôi như vậy, sẽ chịu không nổi khi mất một lần song thai. Theo lời cô em tôi nói thì cô ta đã tính toán và biết được cái thai vừa cấn, chưa vào "sổ bộ sanh bộ tử", cho nên cô ta tìm cách diệt cái thai mới vừa cấn đó để cứu mạng vợ tôi, nhưng cô ta không thể diệt được cả 2 cái, vì một cái đã bắt đầu tượng hình rồi, cái kia chỉ là một cục máu chưa có sự sống, nên cô ta diệt được. Do đó cô ta làm phép cho uống một bông huệ rụng là để diệt cục máu kia, chứ nếu không thì chắc là vợ tôi không thể qua được… Sau sự giải thích của cô em, tôi mới nhớ lại  lời của bà bác sĩ ở bệnh viện Hùng Vương mà không khỏi rùng mình. Cả nhà của tôi ai nấy đều sợ hãi quá sức qua câu chuyện ly kỳ này. Bà xã tôi có xin cô em tôi che chở để cho vợ chồng chúng tôi có con, chứ cơ thể của vợ tôi sau tai nạn vừa qua, vẫn còn rất yếu kém, chính các bác sĩ khuyên chúng tôi không nên có con… Cô em tôi nhìn vợ chồng tôi chăm chăm và buồn phiền lắc đầu nói rằng:

      - Nghiệp của anh chị nặng quá, còn phải trả nghiệp nhiều lắm. Kim Liên sẽ giúp cho nhưng nghiệp của ai thì người nấy phải trả, Kim Liên không thể làm gì hơn. Kim Liên sẽ giúp cho anh chị có cháu mà, đừng có lo. Sau đó cô ta lấy nhang khoáng khoáng vào mặt vợ tôi và không nói gì thêm nữa…

      Vợ tôi sau đó còn bị hư thai thêm một lần nữa, mặc dù chúng tôi và gia đình đã tẩm bổ, bồi dưỡng cho vợ tôi rất nhiều, các bác sĩ cũng tận tình chăm sóc, vậy mà vẫn bị hư thai và đứa con thứ hai của chúng tôi cũng không cứu vãn được!

      Năm 1975, vợ tôi sanh đứa con thứ ba là đứa con trai bây giờ, mặc dù nó cũng bị sanh thiếu tháng, nhưng rất khoẻ mạnh, cơ thể của vợ tôi từ đó khá hơn trước rất nhiều, đứa con gái sanh năm 1980 cũng khoẻ mạnh cho tới bây giờ. Chuyện xảy ra đã lâu lắm rồi, vậy mà lúc ngồi viết lại câu chuyện này, tôi vẫn còn cảm thấy rợn cả người. 

      Sau 1975, gia đình tôi toàn là người của chế độ cũ, vì tránh đi kinh tế mới, nên có mua một miếng đất ở khoảng giữa đường đi Long Khánh thuộc ấp Hưng Bình, huyện Hưng Lộc, tỉnh Đồng Nai với vườn mít, chuối… rồi trồng trọt thêm các hoa màu khác sinh sống. Năm 1978 tôi đi tù cải tạo về, không còn tiền bạc gì cả, vợ chồng tôi và đứa con trai nhỏ cũng theo lên đây ở tá túc nhà Ba Má tôi, cùng nhau làm rẫy sống qua ngày. 

      Khoảng thời gian này, cô em của tôi cũng thường nhập về trị bệnh cho bà con… những người đã biết cô em tôi từ trước rủ rê những người khác, bảo nhau tìm đến gia đình chúng tôi để xin chữa bệnh rất đông. Có người ở tận các tỉnh thành xa, không hiểu nghe ai đồn, biết được cũng lần mò tìm đến. Nhiều lúc tôi bực mình thật sự. Nhà thì nghèo, Ba tôi thì còn kẹt tù chưa về. Má tôi cùng các anh em chúng tôi phải dậy từ sáng sớm, lo vác cuốc đi qua rẫy trồng trọt, tối mịt mới về, cơm nước xong, Má tôi chưa kịp nghỉ ngơi thì đã có người bệnh tới chờ cầu xin cho cô em tôi nhập về chữa bệnh rồi. Tuy Má tôi có đôi lúc mệt quá cũng tìm cách thoái thoát, nhưng vì lòng nhân từ và vì thấy bà con người ta ở xa xôi lần mò tìm tới xin chữa bệnh, không nỡ để họ thất vọng ra về, đa số bà con là người nghèo khổ không, cho nên cầm lòng không đậu, cuối cùng Má tôi cũng để cho bà con thắp nhang cầu xin cô em tôi về để chữa bệnh cho họ.

      Một đêm tôi đi nhậu với ông cậu về ngà ngà say, thấy đông đúc bà con đầy nhà đang bao quanh Má tôi, lúc đó cô em tôi đã nhập về qua xác Má tôi, bực quá đang cơn say tôi chỉ vào cô em mà mắng rằng:

      - Không có Kim Liên, thầy bà gì nữa hết… cả nhà cực khổ quá trời có thấy ai giúp đỡ cho đồng tiền bát gạo nào cho Má đỡ khổ đâu. Má đã cực khổ cả ngày, bây giờ còn hành xác của Má nữa…

      Trong cơn say, đại khái  tôi còn chưởi mắng nói nhiều điều nữa… làm mọi người trong nhà kể cả vợ tôi và mấy đứa em tôi đang ngồi thất sắc hết. Cô em tôi đang nhập qua xác Má tôi, ngước lên nhìn tôi rồi lớn tiếng nói rằng:

      - Kim Liên là em của anh ở dương thế trước đây thôi, chứ giờ này Kim Liên đang ở cõi trên, đâu còn là em của anh nữa, anh không được hỗn với Kim Liên như vậy.

      Đúng lúc đó, tự nhiên tôi cứng cả mình không nhút nhích gì được, dù chỉ là giơ cánh tay lên cũng không nổi, miệng thì không hả ra được. Nếu nói theo như truyện kiếm hiệp, thì tôi y như người bị điểm huyệt lúc bấy giờ, cứ đứng ỳ ra một chỗ, không cục cựa gì được nữa.  

      Cô em tôi giận dữ lắm nhưng cho hay cô không có phạt tôi, tuy nhiên những hộ pháp đi theo hộ giá cho cô đang đứng phía sau lưng cô, không chịu được sự hỗn láo của tôi nên đã trói tôi lại, và nếu cô em tôi không cản thì các hộ pháp đã cho tôi biết tay rồi.

      Lúc đó hồn vía tôi không còn nữa! Sợ quá, bao nhiêu men rượu say sưa trong người bỗng nhiên tan mất hết! Vì không tin không được, người tôi cứ cứng đơ ra, đứng như trời trồng. Chưa bao giờ tôi gặp phải hiện tượng như vậy cả.

      Cô em tôi chưa hết giận, nói với tôi như sau:

      - Sao anh vô ơn vậy! Không có Kim Liên cứu anh 2 lần khi còn trong tù, liệu anh có còn đứng đó mà hỗn láo với Kim Liên nữa hay không? Khi anh bị phù thũng, chân sưng to chảy nước vàng trong tù, lúc đó tại sao lại nhớ đến Kim Liên mà kêu cứu. Nếu Kim Liên không đến cứu anh thì anh có còn sống nổi không?? Còn nữa, khi anh bị cây đè trong rừng, anh kêu cứu đến Kim Liên. Kim Liên đã đến đỡ cây cứu thoát cho anh, vậy mà sao anh không biết gì hết. Kim Liên về đây, mượn xác Má, tạo phước cho bá tánh, cũng là tạo phước cho Má và gia đình, tạo phước luôn cho anh chị sao anh lại trách Kim Liên…

      Ôi thôi cô ta giận dữ la hét quá trời. Bà con và mọi người trong nhà lạy như tế sao  xin tha cho tôi... Còn tôi thì sợ hãi không thể tả, người toát đầy mồ hôi lạnh ngắt. Qua lời của cô ta đã khiến tôi nhớ lại rất rõ những hình ảnh sự việc khi chúng tôi trình diện học tập cải tạo sau 30 tháng 4 năm 1975. Trước tiên bị đưa vào trại Trảng Lớn ở Tây Ninh. Thời gian này, Ủy Ban Quân Quản của MTGPMN còn kiểm soát chúng tôi, gạo cho chúng tôi ăn là gạo ẩm mốc lưu trữ trong hầm nhiều năm trước đây, cho nên hầu hết đã bị sâu mọt ăn hết, chất B1 trong gạo không còn nữa, do đó gần như các anh em chúng tôi ai nấy đều bị phù thũng nặng vì trong người thiếu chất B1.

      Lúc đó chúng tôi chưa được thăm nuôi. Họ chỉ phát cho mỗi người một viên B1 nhỏ mỗi ngày khi bệnh phù thũng bắt đầu phát hiện, nhưng rồi thuốc không đủ cung cấp cho tất cả chúng tôi và bệnh phù thũng ngày càng nặng nề. Nhiều người trong đó có tôi, chân tay căng phù lên, da láng bóng trông thấy rất dễ sợ, lấy ngón tay ấn vào buông ra thì có một lỗ hủng sâu hoắm... trông kinh dị hết sức. Điều tệ hại hơn nữa là chúng tôi không nhấc chân lên đi được, cứ đứng lên là té xuống liền. Có mấy người bị đưa đi bệnh xá rồi chết trên đó. Tin tức truyền về từ những anh em khiêng bệnh nhân đi bệnh xá, thì nằm bệnh xá cũng chỉ chờ chết thôi chứ đâu có thuốc men gì trên đó đâu, cho nên thà là nằm ở trại còn hơn, có gì còn có anh em tù giúp đỡ. Bệnh phù thũng của tôi rất nặng, da căng mỏng dính, một vài chỗ bị rách da và chảy nước vàng… lúc đó tôi thật là thê thảm không đi đứng được mà cũng chẳng có thuốc men gì ngoại trừ mấy viên Xuyên Tâm Liên mỗi ngày, nhưng tôi nhất định thà nằm chết ở trại chứ không chịu xin đi bệnh xá. Tinh thần của tôi lúc đó thật tình mà nói đã xuống lắm, tôi cứ nghĩ mình sẽ chết, nên tối ngày cứ nằm cầu nguyện, không thiết ăn uống gì cả. Trong những lúc cầu nguyện như thế, tôi đã cầu nguyện tới cô em Kim Liên của tôi nhiều lần và từ từ thì tôi hồi phục hồi nào không hay và khỏi hẳn. Tôi cũng cho đó là một điều may mắn và cũng nghĩ là số mình có ơn trên độ mạng, rồi theo ngày tháng hầu như tôi cũng đã quên đi chuyện này. 

      Lần thứ hai, khi chúng tôi chuyển trại lên Đồng Bang, chung quanh là rừng bạt ngàn bao quanh cho tới tận biên giới Campuchia. Một hôm chúng tôi nhận lệnh phải đi chặt tre, chỉ tiêu đưa ra cho mỗi người là hai cây tre dài. Sau khi chuyển đến trại Đồng Bang này rồi, chúng tôi không bị kiểm soát gắt gao như trước nữa, mỗi ngày nhận chỉ tiêu công việc trong ngày và cứ thế mà làm, miễn sao xong chỉ tiêu được giao thì thôi… Từ trại chúng tôi ở, đi đến rừng tre xa vô cùng, có thể cả 10 cây số chứ không ít, bởi vì các khu rừng chung quanh gần đó đã bị đốn sạch để lấy đất làm rẫy khai thác trồng trọt hết rồi. Chúng tôi đi đến rừng tre thì trời đã gần trưa. Mọi người tranh thủ nghỉ ngơi, ăn chút khoai mì luộc mang theo, sau đó tản mác ra, đi kiếm tre tốt chặt để còn về tới trại trước khi trời tối chứ nếu không, trời sụp tối không thấy đường sẽ rất khó đi… Sau khi kiếm được bụi tre vừa ý, phát hết các gai góc chung quanh cho trống chỗ để lần vào bên trong và bắt đầu chặt ngang gốc những cây tre đã chọn… sau đó sẽ kéo tre xuống và róc mấy cành lá nhỏ rồi chặt ngọn… Công việc này, anh em tù cải tạo chúng tôi làm nhiều lần rồi cho nên rất kinh nghiệm, gần như bụi tre gai cỡ nào đi nữa cũng không làm khó anh em chúng tôi được. Hôm đó trời xui đất khiến như thế nào mà 2 cây tre tôi đã chặt đứt gốc rồi nhưng kéo hoài không xuống được vì ngọn của nó cứ bị vướng vào mấy dây leo từ mấy cây cao khác. Bỏ đi chặt lại cây tre khác thì tiếc công mình đã bỏ ra quá lâu, vả lại bắt đầu lại từ đầu thì sợ trể giờ về không kịp trời tối, cho nên tôi liều đu theo dây leo, trèo lên cây cao gần đó với ý định chuyền ra cái cành to của nó rồi dùng rựa chặt mấy dây leo đã bám vào ngọn cây tre của tôi đã chặt, cho khỏi vướng nữa để tôi có thể kéo nó xuống… Ai ngờ cái cành đó lâu năm, bị mục một đầu tôi đâu có biết! Đang ngồi vắt vẻo trên cành cây to tổ bố và chặt đứt mấy dây leo dính với cây tre của tôi ngon lành thì bỗng nghe "rắc" một tiếng lớn. Cành cây bị gãy!! Tôi té từ trên cao xuống với nguyên cành cây lớn và bao nhiêu là dây leo chằng chịt quanh người. 

      Tôi ngất đi không lâu lắm, vì khi tỉnh lại thì vẩn thấy ánh nắng xuyên qua các kẽ lá. Cố gắng trườn ra khỏi đống dây leo phủ trên mình, nhưng tôi hoàn toàn không nhúc nhích được thân người. Toàn thân ê ẩm và đau đớn vô cùng mỗi khi tôi ráng nhích người lên. Không biết tôi đã ngã như thế nào mà cành cây lớn lại đè ngay lên trên thân mình, dây leo chằng chịt bao quanh, còn cái rựa không biết rơi mất nơi đâu. Tôi kêu cứu thật to, nhưng ngoài tiếng vang của chính mình, không nghe tiếng ai trả lời gì cả!! Các anh em khác hoặc đang tản mác đâu đó thật xa để kiếm tre tốt chặt hoặc tranh thủ đi đào rể sâm chỉ, hoặc kiếm cải trời, lá bứa, lá giang…đem về cải thiện thêm cho bữa ăn hằng ngày vốn chẳng có gì nhiều của chúng tôi. Tôi kêu cứu đến khan cả cổ mà không nghe tiếng đáp lại thì tuyệt vọng vô cùng! Cố rút  chân ra khỏi đống dây leo, nhưng đau quá không làm được. Tôi bắt đầu dùng hai tay lôi những dây leo từng sợi một rồi dùng sức thảy mạnh nó qua một bên để tạo khoảng trống cho tôi có thể nhoài người ra được chút nào hay chút đó, khỏi cái mớ dây leo rối bung đang quấn xung quanh và cành cây to đang đè ngang trên mình. Không nhận thức được mình có bị thương hay gãy xương gì hay không, bản năng sinh tồn của tôi lúc đó cứ thôi thúc làm sao phải ra khỏi chỗ bị kẹt này trước khi trời tối… Nỗi sợ hãi làm cho tôi không còn biết đau đớn, mặc dù cảm nhận đôi tay trong khi bươi, cào, kéo... các dây leo chung quanh đã bắt đầu rướm máu. Trong những nổ lực tuyệt vọng như thế, miệng tôi không ngớt cầu nguyện, tôi đã gọi tên Kim Liên, cô em chết rất linh thiêng trong gia đình tôi nhiều lần, xin về cứu mạng… Thời gian như thế không biết qua bao lâu, trong một trạng thái mê sảng tôi mơ hồ cảm thấy thân hình mình có thể trườn ra khỏi được cành cây to đang đè trên người và từ đó tôi thoát ra được mớ dây nhợ lùng bùng chung quanh tôi. 

      Lúc này trời đã về chiều, tôi lượm một cành cây nhỏ, định chống đi theo con đường mòn ra khỏi rừng tre, nhưng chân phải tôi mổi lần đặt xuống đất là cứ đau nhói lên. Tôi tưởng bị gãy xương chân, nhưng sau khi ngồi xuống rờ nắn cẩn thận thì không phải gãy xương, vậy mà sao cứ đau quá không thể nào đi được! Tôi nghĩ chắc có thể đã bị mẻ một xương nào đó trên bàn chân phải của tôi thôi. Cuối cùng thì vừa lết vừa bò, tôi cũng ra khỏi được khu rừng tre rộng lớn đó… Tôi lết thêm một lúc lâu sau thì đến con đường mòn chính, chỗ các ngả tẽ qua các khu rừng khác để đi chặt tre, cắt tranh, hoặc đốn cây… mà các anh em chúng tôi hay gọi đùa là ngã tư quốc tế. Mệt muốn ngất, tôi không còn lết thêm chút nào được nữa. Trời lúc này khoảng 4 giờ chiều, thân thì bị thương mà tôi còn ở ngã tư quốc tế nơi còn cách trại chúng tôi cũng gần 8 cây số nữa chứ không ít!! Tôi nằm dài ra ngay trên con đường mòn mặc cho số phận đưa đẩy.

      Nằm được một lúc, bỗng nghe có tiếng người, tôi nhỏm dậy nhìn thì thấy có 6 người đang gánh tranh đi tới, đó là các anh em tù cải tạo ở trại kế bên trại tôi đi cắt tranh về. Người nào cũng gánh một gánh tranh thật to. Thấy tôi bị thương nằm giữa đường, họ ngừng lại lấy nước cho tôi uống và sau một lúc bàn bạc hai người trong bọn bỏ tranh bên lề đường và kiếm dây rừng kết sơ sài thành một bệnh dây to để tôi ngồi lên đó, hai người võng tôi đi. Sáu anh em đó thay phiên nhau võng tôi, hì hục mãi cũng đến được trại tôi ở thì trời đã tối mịt lâu lắm rồi. Sau khi giao tôi cho mấy người vệ binh trong trại, một vệ binh khác hướng dẫn mấy anh em đó về trại của họ. Tôi tiếc một điều là từ đó đến nay, tôi không có dịp gặp lại 6 anh em đã cứu đưa tôi về trại an toàn để có dịp tạ ơn. Tôi cũng nghĩ là số mình may mắn, đi đâu cũng gặp ân nhân giúp đỡ, chứ không nghĩ xa hơn nữa. Năm đó là năm 1977.  

      Trở lại chuyện nói về cô em của tôi. Sau khi nghe cô em tôi la mắng như thế, tôi mới hoảng hồn vía, chuyện tôi bị phù thũng và bị nạn té trong rừng, cây đè... v...v… tôi chưa từng nói cho ai nghe, kể cả vợ tôi. Vậy mà cô em tôi nhắc lại chuyện đó và cho biết là đã cứu tôi thì thử hỏi tôi không khiếp vía sau được. Nhớ lại cái cảm giác trườn ra được cái cành cây to có vướng dây leo chằng chịt đè lên người năm xưa, tôi thấy đúng là kỳ lạ thật! Vì trước đó tôi đã cố gắng biết bao nhiêu lần mà vẫn không nhúc nhích gì cả, bỗng dưng lại trườn ra được khỏi cái bẩy đó? Đồng thời với độ cao mà tôi đã ngã xuống đất, lại bị cành cây to đè lên như thế mà không bị gãy xương, hoặc chết, thì quả là một điều lạ lùng thật… Sau một lúc giận dữ, cô em tôi cho tôi biết là lần này cô tha cho tôi, nếu lần sau mà còn nói hỗn với cô nữa thì cô sẽ mặc kệ và không lý gì tới tôi nữa. Tự nhiên ngay lúc đó chân tay tôi cử động lại được; viết tới đây tôi còn cảm giác thấy rờn rợn sau lưng; tôi ngồi bệt xuống nền nhà, mọi người xúm lại bảo tôi xin lỗi cô em tôi đi... lúc đó tôi đã hoảng vía quá rồi, nên ngỏ lời xin lỗi cô em tôi và cũng xác nhận với mọi người chung quanh về việc tôi bị nạn 2 lần trong tù trước đây, ngay cả việc thoát nạn một cách kỳ lạ mà tôi cho là do số mình may mắn thôi, chứ không biết là Kim Liên đã ra tay cứu tôi...

      Sau khi mọi người yên ổn trở lại, cũng ngay trong bữa đó, tôi có nói với Kim Liên là tôi và gia đình lo ngại chính quyền địa phương sẽ làm khó dễ gia đình nếu cô cứ nhập về hoài, họ sẽ nghĩ là đồng bóng, dị đoan, làm tiền thiên hạ… và sẽ gán tội cho gia đình này nọ thì phiền lắm. Cô em tôi cho biết là không ai có thể làm khó dễ gia đình chúng tôi được, vì ngay cả những gia đình của chính quyền địa phương rồi sẽ đến nhờ cô cứu giúp... Cô nói với mọi người hãy chờ xem lời cô nói có đúng hay không? Đừng có lo lắng gì cả.

      Chuyện cô em tôi nhập về Má tôi để chữa bệnh, quả nhiên đã đến tai chính quyền địa phương thiệt. Một buổi sáng đang ở bên rẫy, có người chạy kiếm Má tôi và tôi ra ấp Hưng Bình có chuyện. Linh tính báo chúng tôi biết là có điều không hay xảy ra rồi. Thật vậy, ngay sau khi ra đến văn phòng ấp Hưng Bình, thằng cha trưởng ấp đã lên tiếng nạt nộ Má con tôi về chuyện buôn thần, bán thánh, mê tín dị đoan… và cấm Má tôi từ nay không được lên đồng lên cốt, mê tín dị đoan, nếu không ông ta sẽ trình lên xã để bắt chúng tôi. Chúng tôi ra về, trong bụng rầu thúi ruột. Tôi nói với Má tôi, phải cầu xin sao cho Kim Liên đừng về nữa chứ như vầy hoài có ngày cũng bị địa phương khó dễ bắt bớ… gia đình tôi không lấy của ai đồng xu cắc bạc nào về chuyện này, Má tôi cũng đã nhiều lần cầu xin để cho Má tôi yên, chứ nào phải Má tôi muốn như vậy đâu. Ba tôi còn kẹt trong tù, tôi thì mới từ tù cải tạo về không bao lâu… mấy thằng địa phương mà làm khó bắt chẹt một cái là chết liền, chứ phải chơi đâu.

      Mấy ngày sau trôi qua thật nặng nề, gia đình vẫn còn nơm nớp lo sợ tai hoạ có thể tới hồi nào không hay, thì một buổi tối gia đình thằng cha trưởng ấp Hưng Bình bồng một đứa con nhỏ, hớt ha hớt hải đi vào nhà chúng tôi. Bà vợ thằng cha trưởng ấp bồng theo một đứa con nhỏ khoảng 3, 4 tuổi gì đó. Cả nhà không biết chuyện gì, thì bà này đã mếu máo nói rằng con của bà ta bị bệnh dời ăn, lở lói hết cả người và chảy nước vàng, đi thầy thuốc không biết là bao nhiêu người mà bệnh tình càng ngày càng thấy nặng hơn. Có người bày cho vợ chồng bà ta hãy bế con vào xin Má tôi cứu chữa. Má tôi trả lời thật tình không biết cách chữa bệnh này… Bà vợ tay trưởng ấp nói nghe đồn Má tôi có đứa con gái chết linh thiêng lắm và hay về để chữa bệnh cứu người đời, vậy xin hãy làm phước cứu dùm cho con bà.… Má tôi nói:

      -Ông trưởng ấp đã nói với tôi mấy ngày trước là gia đình tôi mê tín dị đoan này nọ… và cấm chúng tôi chuyện này, nay sao bà lại đến bảo chúng tôi cầu con gái tôi về để chữa bệnh cho con bà. Chúng tôi không dám đâu… thật tình chúng tôi không biết chữa bệnh này, xin bà hãy về kiếm thầy chữa cho cháu đi…

      Bà vợ thằng cha trưởng ấp và mấy người bà con đi cùng khóc lóc năn nỉ hoài không được nên đành bồng đứa nhỏ ra về. Khoảng nữa tiếng đồng hồ sau, họ lại bồng đứa nhỏ đến, lần này có cả thằng cha trưởng ấp đi theo nữa. Hắn ta xuống nước năn nỉ Má tôi, nói rằng Má tôi đừng có giận, vì nhiệm vụ hắn phải làm như vậy thôi chứ không có ý gì hại gia đình tôi, hắn cũng có hỏi bà con thì được biết việc chữa bệnh của cô em tôi là hoàn toàn làm phước, không có gạt gẩm của ai và không lấy tiền bạc của ai cả… cho nên hắn ta không có báo cáo lên xã, nay chẳng may đứa con đầu lòng của hắn bị bệnh ngặt nghèo mà không ai chữa trị được, nên cầu xin Má tôi làm phước xin cho cô em tôi về để chữa trị dùm, nếu lỡ như không trị được cũng không sao, gia đình của hắn cũng biết ơn và hứa sẽ không bao giờ làm khó dễ gì gia đình chúng tôi cả … còn bà vợ của hắn thì cứ sụt sùi khóc, thấy cũng thảm thiết lắm. Má tôi là một người đàn bà nhân từ, hể thấy ai khóc lóc, năn nỉ điều gì là thế nào cũng mũi lòng và nếu giúp được gì thì sẽ giúp ngay, không giận ai lâu được. Tôi thấy Má tôi bắt đầu xiêu lòng, thì thật tình trong bụng tôi bực bội lắm nhưng không nói gì được. Tôi chỉ chen vô nói với thằng cha trưởng ấp:

      - Đây là gia đình ông cầu xin chứ chúng tôi không muốn, sau này đừng có đổ thừa rồi khép cho chúng tôi là mê tín dị đoan, này nọ thì không được...

      Hắn ta và bà vợ luôn miệng nói:

      - Không có đâu. Không có đâu… gia đình tôi giúp cho thì vợ chồng hắn mang ơn không hết có đâu lại hại gia đình tôi này nọ…   

      Sau đó Má tôi thắp mấy nén nhang, lâm râm cầu xin.. Một lúc sau cô em tôi nhập về, cô ta dùng nhang khoáng lên người của đứa bé, sau đó dặn bà vợ của tay trưởng ấp, ngày mai đi ra ngoài đồng, hái 7 lá muồng trầu, vò nát rồi thoa lên lưng và thân thể thằng bé, làm như vậy mấy lần sẽ hết, chỉ đơn giản vậy thôi. Đâu đó xong xuôi, cô em tôi quay qua cầm bó nhang lửa cháy hừng hực, hỏi tay trưởng ấp có dám cầm ngay đầu bó nhang lửa đang cháy không...Tay này sợ quá  nói:   

      - Không, không. Tôi không dám đâu.

      Cô em tôi bảo:

      - Cứ cầm đi, không có gì phải sợ, không có phỏng đâu.

      Nói xong cô ta dúi ngay đầu bó nhang đầy lửa ngay vào tay của hắn. Hắn đang ngồi, hoảng hồn lết lui lại tránh, nhưng cô em tôi bảo cứ đưa tay ra. Hắn rụt rè đưa tay ra, cô em tôi dí sát ngay đầu lửa đỏ của nhang vào tay hắn, lạ thay hắn không bị phỏng gì cả. Cô em tôi sau đó có nói với hắn như sau:

      -Gia đình này là gia đình đàng hoàng, chuyên làm phước thiện, chữa bệnh cho người đời, không lấy tiền lấy bạc của ai cả. Chứ không phải tà ma ngoại đạo, gạt gẩm lấy tiền của dân chúng đâu…

      Sau đó cô ta còn răn đe hắn không được làm khó dễ gia đình tôi. Nếu hại tới gia đình chúng tôi thì sẽ thấy hậu quả liền...

      Ôi thôi hai vợ chồng tay trưởng ấp và mấy người bà con của hắn lạy cô em của tôi lia lịa và hứa sẽ giúp đỡ cho gia đình tôi được dễ dàng trong việc cứu người sau này. Qua mấy ngày sau đó, hai vợ chồng hắn mang trái cây đến biếu gia đình tôi và cho biết là đứa con trai đã gần dứt bệnh, các chỗ lở lói do dời ăn đã lành miệng và cháu đã ăn ngủ được rồi… Dĩ nhiên sau đó gia đình tôi không còn bị làm khó dễ nữa.

      Có một chuyện tôi muốn mở ngoặc ở đây, để nói về Ba tôi: Ba tôi trước 1975 là một Hạ Sĩ Quan binh chủng Không Quân, cấp bực Thượng sĩ nhất. Tuy cấp bực chỉ là Hạ Sĩ Quan,nhưng trình độ Anh Văn của Ba tôi rất giỏi, ông là một trong những giảng viên của trường Anh Ngữ Không Quân QLVNCH, quân nhân Không Quân các cấp, trước khi đi du học hoặc tu nghiệp ở Mỹ, đều phải qua một khóa huấn luyện về tiếng Anh ở trường Anh Ngữ này, phải đậu xong kỳ thi khảo hạch cuối khóa mới được đi du học… Do công vụ, Ba tôi đã được đi huấn nghiệp 3 lần tại Mỹ. 

      Vào những ngày cuối tháng Tư 1975, lẽ ra Ba Má và các em của tôi đã di tản theo trường Anh Ngữ Không Quân. Vào lúc bấy giờ tình hình rất phức tạp, nhiều vị sĩ quan cấp Đại Tá cũng không đưa gia đình đi được, chứ không phải hể có cấp bực lớn là muốn đưa gia đình đi lúc nào là đi, ngược lại có những người lính Quân Cảnh hoặc những nhân viên cấp bậc nhỏ, nhưng làm ở nơi quan trọng lại đi được dễ dàng. (Trong một số Hồi Ký của các cựu Đại Tá Không Quân đã viết lại rất rõ chuyện này). Ba tôi là một trong những trường hợp người có cấp bậc nhỏ nhưng lại có danh sách di tản với toàn bộ gia đình đàng

hoàng. Ông có bạn bè thân làm ở cơ quan DAO (Defense Attaché Office) đã giúp đưa lọt được danh sách của gia đình vào trong list những người được di tản. Các giới chức Mỹ ở DAO đã lên danh sách những người trong gia đình Ba Má tôi và đã định ngày giờ đi rồi.

      Khổ một nổi sau khi Ba tôi cho Má tôi hay, bà nhất định không chịu đi, có nhiều lý do Má tôi nại ra để không đi… nào là qua bên đó làm cái gì mà ăn, nào là cả nhà ngoại trừ Ba tôi ra, không ai biết tiếng Anh… nào là bà con dòng họ, mồ mả ông bà ở đây làm sao bỏ đi cho được... ôi thôi đủ lý do hết! Ngày nào Ba Má tôi cũng cãi vả về vấn đề này và cuối cùng thì Ba tôi đành chịu thua và bỏ cuộc không đi. Sau này tôi mới biết lý do chính mà Má tôi cương quyết không đi là vì vợ chồng và đứa con sắp ra đời của chúng tôi. Vào những ngày đó, chung quanh súng nổ ì xèo, mọi người nhốn nháo, lo sợ đủ thứ… trong khi đó vợ tôi thì lại sắp sửa sanh! (Hai lần trước vợ tôi đã bị hư thai như tôi đã nói, lần này là lần thứ ba). Tôi thì lúc đó còn kẹt lại ngoài Phan Rang sau ngày đơn vị tan hàng, không biết sống chết ra sao, cho nên Má tôi không đành bỏ đi… Ba tôi không dẫn gia đình di tản được, thì rầu rỉ lắm. Ông biết ở lại sẽ khổ lắm vì những thành phần như ông mặc dù là Hạ Sĩ Quan, không phải trình diện đi tù cải tạo, nhưng cũng đâu biết làm gì sống với cái lý lịch 3 lần đi Mỹ trước đây. 

      Quả nhiên sau 1975, lúc đó tôi đã đi trình diện học tập cải tạo rồi, Ba tôi không thể kiếm được một việc gì làm cả, tối ngày phường khóm cứ thúc dục Ba Má tôi đi kinh tế mới hoài, càng làm cho Ba Má tôi khủng hoảng thêm. Do đó sau khi gom góp vốn liếng và với sự giúp đỡ của bà dì; chị của Má tôi; Ba Má tôi mua miếng đất ở ấp Hưng Bình, Xã Hưng Lộc như đã nói ở phần trên, sau đó Ba tôi để cho Má và mấy em tôi lo việc canh tác, còn ông thì cứ đi khắp nơi tìm cách vượt biên. Khoảng thời gian này, phong trào vượt biên đã bắt đầu, tuy chưa rầm rộ lắm. Thế rồi trong một kế hoạch hùn hạp đóng ghe để cho toàn bộ gia đình tôi vượt thoát bị đổ bể, Ba tôi bị bắt giam và đưa đi lao động tại Mộc Hoá. Tiền bạc tiêu tán hết ! Chồng thì bị bắt, tôi là con trai lớn trong nhà cũng còn kẹt trong tù chưa biết ra sao? Má tôi phải quán xuyến cả đàn con dại 8 đứa còn lại cộng thêm con dâu và đứa cháu nội mới vừa biết chạy lẫm đẫm. Ở nhà hồi nào đến giờ có ai biết cầm cuốc, trồng trọt gì đâu? nhưng rồi cũng phải bương chải thôi. Má tôi đã có lúc muốn tự tử chết đi cho rồi, nhưng vì thương con cháu, nên phải cố gắng sống. Nhờ trời thương, các bệnh nhân ở địa phương mà cô em tôi chữa bệnh cho trước đây, thấy Má và các em tôi cực khổ quá, nên họ cũng đến giúp, vào những lúc mùa màng bận rộn, hoặc những lúc thu hoạch, họ bảo nhau đến giúp cho gia đình tôi, nhờ vậy mọi chuyện rồi cũng xong.

      Đến năm 1978 thì tôi từ trại cải tạo được thả về cùng với gia đình tiếp tục sống như thế. Gia đình chúng tôi vẫn sống nhờ vào một rẫy mít, chuối và canh tác trồng trọt thêm bắp, đậu, khoai mì… dù quần quật cả ngày,nhưng vẩn không đủ đâu vào đâu cả, cuộc sống của chúng tôi lúc đó rất là khó khăn.

      Khoảng giữa năm 1979 hung tin đưa tới. Ba tôi vì bị đày ải, lại thêm buồn rầu nên sanh bệnh và chết trong trại tù cải tạo tại Mộc Hóa, xác được anh em tù chôn ngay trong trại Môc Hóa. Gia đình tôi chịu cái tang lớn này thật không còn tai họa nào có thể sánh bằng. Chúng tôi làm đơn xin mang xác Ba tôi về, nhưng vì khi tin đưa tới Ba tôi đã chôn được gần 1 tháng rồi, đồng thời  Mộc Hoá lúc đó bị lụt ngập nước hết, không làm sao vào được. Chính quyền địa phương nói lúc này không thể nào đào mộ lên được nữa. Cả nhà bàn thôi thì đợi 3 hoặc 5 năm sau hãy xin hốt cốt lên, hoả thiêu rồi mang  tro về chùa thờ, chứ biết làm sao hơn!!

      Đúng thất tuần 49 ngày, gia đình tôi làm một lễ cầu siêu cho Ba tôi, có một ni cô quen với gia đình đến giúp tụng kinh dùm cho Ba tôi. Sau khi làm lễ xong, mọi người đang ngồi quây quần nói chuyện thì cô em tôi nhập về qua xác Má tôi. Bẵng đi một thời gian, cô em tôi không về thường như trước nữa, chúng tôi đôi lúc cũng thắc mắc, không hiểu tại sao. Mấy đứa em và vợ tôi thấy cô em tôi về đều khóc oà lên, mếu máo nói:

      - Ba chết rồi Kim Liên biết không??

      Cô em tôi qua xác của Má tôi cũng khóc, nhưng không nói gì cả.

      Trong cơn đau buồn, tôi đã giận dữ lớn tiếng trách cô em tôi:

      - Nếu Kim Liên có linh thiêng, tại sao không cứu giúp Ba?? Tại sao không cản Ba khi Ba có ý định đóng ghe, hoặc có linh thiêng tại sao không giúp để cho Ba không phải bị bắt để rồi chết bỏ xác trong tù…

      Cô em tôi ngồi khóc một hồi rồi nói với mọi người rằng:

      - Chuyện của Ba, Kim Liên đã thấy, đã biết được từ lâu… cũng như mọi người đang ngồi trong nhà đây, Kim Liên cũng thấy và biết được nghiệp của mỗi người hết chứ không phải là không. Nhưng Kim Liên không thể làm gì được, ai tạo nghiệp cũng đều phải trả cả, không ai có thể cứu được chuyện này. Ngài Mục Kiền Liên đã tu thành Đại Bồ Tát mà còn không cứu được Mẹ của mình, phải nhìn Mẹ mình đọa địa ngục… cho nên xin đừng trách Kim Liên. Kim Liên cũng đau lòng lắm. Cũng như Kim Liên biết Má và gia đình cực khổ, nhiều lúc không đủ ăn, Kim Liên không thể giúp ngân tiền cho Má và gia đình được… Kim Liên chỉ có thể giúp tạo phước cho Má và gia đình sau này thôi, coi như để trả cái ơn Má đã cưu mang, dưỡng dục Kim Liên trên dương thế trước đây.  Kim Liên muốn giúp Má và gia đình lắm, nhưng chỉ giúp được những gì Kim Liên có thể giúp thôi và từ từ thì gia đình sẽ thấy ứng nghiệm của sự tạo phước mà Kim Liên đã làm cho gia đình. Bây giờ Kim Liên không nói trước được đâu.

      Đang giảng cho cả nhà một thôi một hồi như thế, bỗng nhiên cô ta quay lại chỉ bà ni cô đã đến tụng kinh cầu siêu dùm cho Ba tôi, vừa cười vừa nói rằng:

           - Này vị ni kia, nãy giờ niệm Quán Thế Âm Bồ Tát tính xua đuổi Kim Liên đi đó phải không?? Kim Liên đâu phải là ma quỷ gì đâu mà xua đuổi. Quán Thế Âm Bồ Tát với Kim Liên tuy không cùng Đạo, nhưng cùng đường. Kim Liên tu theo đường Tiên của Kim Liên, còn Bồ Tát và ni tu theo đường Phật. Ni có đọc chú xua đuổi tà ma thì được còn Kim Liên đâu phải tà ma đâu mà sợ câu chú của ni.

          Nói xong cô ta vẫn còn cười bà ni cô hoài. Bà ni cô hoảng hồn và thú nhận rằng bà ta không tin cho nên niệm thầm mấy câu chú của Quán Thế Âm Bồ Tát để nếu có phải là tà ma thì sẽ sợ mà xuất đi liền, không ngờ cô em tôi biết được nên nói toạt ra cho mọi người nghe.

          Sau đó, câu chuyện trở lại đề tài cái chết của Ba tôi, tôi  hỏi cô em tôi có thể xin cho Ba tôi về để gia đình thăm được không? Cô ta ngồi lấy mấy đầu nhang cháy đỏ tính toán gì đó trên mấy đốt ngón tay, một lúc sau nói với mọi người rằng, được rồi cô ta sẽ dẫn Ba chúng tôi về cho chúng tôi thăm và cô ta dặn, khi Ba tôi về, không được cho Ba tôi ăn uống gì cả, dù Ba tôi có hỏi cũng không được đưa cho. Chúng tôi hứa y như vậy. Cô ta xuất đi một lúc thật lâu, cũng khoảng hơn nữa tiếng, thì Ba tôi nhập về. Chúng tôi mới đầu tưởng là Kim Liên cô em của tôi, nhưng  sau khi Ba tôi khóc và lên tiếng kêu tên từng đứa con lại gần vuốt ve, thì chúng tôi biết đúng là Ba tôi rồi. Ông về kể rằng ông bị bệnh tim mạch và đứt mạch máu não mà chết, chỗ anh em tù chôn Ba tôi bây giờ nước lênh láng, Ba tôi nằm lạnh lắm…

          Cả gia đình khóc quá trời qua lời kể thương tâm đó của Ba tôi. Ông kéo đứa em út của tôi và con trai tôi vào lòng và khóc như mưa… Tôi hỏi Ba tôi chết như vậy là chết oan hay là chết đúng số. Ba tôi cho biết ông chết đúng số chứ không có oan, nhưng vì không gặp mặt được vợ con, gia đình nên còn ấm ức lắm… Sau một lúc khóc lóc kể lể, Ba tôi và cả nhà đã bớt bi thương, tôi hỏi Ba tôi có gặp Kim Liên không. Ba tôi trả lời có và ra vẻ sợ sệt lắm. Ba tôi nói Kim Liên bây giờ có chức sắc lớn lắm, ai thấy cũng sợ cả. Ba tôi cho biết lúc còn ở dương thế Kim Liên là con của ông, nhưng bây giờ ông cũng không dám nhìn thẳng vào Kim Liên nữa. Tôi mới hỏi Kim Liên có giúp gì cho Ba không. Ba tôi nói có chứ, Kim Liên giúp giảng đạo cho ông và khuyên ông ráng tu để mau dứt nghiệp… Ngay lúc đó, mặc dù rất là tin tưởng, nhưng trong lòng tôi vẫn muốn thử xem như thế nào. Tôi làm bộ hỏi Ba tôi một số chữ và thành ngữ tiếng Anh mà tôi không biết nghĩa, mặc dù tôi có biết mấy chữ đó. Ba tôi giảng cho tôi nghe răm rắp từng chữ, từng câu thành ngữ một... Đến đây thì tôi hoảng hồn đến nổi lạnh cả người. Như vầy thì không thể nào giả được cả, vì Má tôi có biết một chữ tiếng Anh nào đâu…

          Ba tôi về được khá lâu, đang còn tiếp tục nói chuyện với gia đình, bỗng dưng Ba tôi nói ông phải đi rồi, nói xong khóc oà và kêu từng người tới ôm hôn… Sau đó thì xuất đi, được một chốc thì cô em tôi nhập về lại, cả nhà xin cô thỉnh thoảng dẫn Ba tôi về cho cả nhà thăm nữa. Cô ta nói:

          - Thôi, làm vậy không tốt cho Ba, để yên cho ông tu tập, ông còn nhiều nghiệp nặng lắm, đừng làm phiền ông.

          Rồi cô lãng qua chuyện khác. Cô ta còn cười nói với tôi là:

          -Thử như vậy đã tin chưa hay còn muốn thử nữa..

          Tôi hết hồn, ngồi im ru không dám nói gì cả. Đó là lần đầu và cũng là lần duy nhất Kim Liên cho Ba tôi về thăm, ngày hôm đó đúng vào thất tuần làm lễ cầu siêu 49 ngày cho Ba tôi, sau này chúng tôi có xin mấy lần nữa nhưng cô ta không cho.

         Sau cái chết của Ba tôi, Má tôi buồn lắm, tinh thần suy sụp thấy rõ, cộng thêm cuộc sống ruộng rẫy quá khó khăn mà vẫn không đủ sống, làm cho Má tôi càng lo rầu hơn. Chúng tôi bàn bạc với nhau bán hết nhà cửa đất đai về Saigon tìm cách khác sinh sống. Khổ một nổi vấn đề hộ khẩu và với số người trong gia đình tôi đông như thế, đâu phải  chuyện nói là làm được ngay đâu, đa số các em tôi  tuổi thì còn quá nhỏ, Má tôi lại nhất quyết không cho các em tôi bỏ học, làm gì thì làm nhưng cũng phải tiếp tục học. Cho nên chuyện bỏ hết đi về Saigon sinh sống thật không dễ dàng chút nào cả? Vả lại nhà cửa ở Saigon đâu còn nữa mà về. Cho nên tính là một chuyện mà không biết thực hiện bằng cách nào? 

          Năm sau 1980, vợ tôi sinh được một đứa con gái, cảnh nhà khó khăn đến nổi nhiều lúc vợ tôi phải cho con gái tôi bú nước cháo pha với đường, chứ không có tiền mua sữa cho nó mà cơ thể vợ tôi lúc đó cũng không được tốt lắm, cho nên không đủ sữa mẹ cho đứa bé. Nhân một dịp cô em tôi nhập về, tôi xin cô ta nếu có linh thiêng thì hãy tìm cách cứu giúp cho gia đình, chứ hoàn cảnh như thế này hoài thì làm sao sống nổi, qua đó tôi cũng nói là ý của Má và chúng tôi nhất quyết bán hết tất cả để về thành phố sinh sống.  Cô em tôi buồn bã lắm và cho tôi biết rằng sắp tới đây cô sẽ ít về được vì bận lắm.Cô đã tính toán, tạo phước để cứu giúp cho gia đình rồi, chẳng qua thời cơ chưa tới, và nghiệp của Má tôi, của vợ chồng tôi cũng như mọi người còn phải chịu cay đắng khó khăn thêm một thời gian nữa, thì mới an nhàn được.

          Tôi hậm hực hỏi:

          - Như vậy thì còn phải chịu đựng bao nhiêu lâu nữa?

          Cô ta chỉ lắc đầu buồn bã, không trả lời câu hỏi đó. Tuy nhiên cô ta có khuyên gia đình là hãy cố gắng lên, mọi chuyện rồi sẽ được an bài tốt đẹp. Tuy sẽ còn nhiều nạn tai, khó khăn, nhưng bất kỳ gặp chuyện gì cũng có cô ra tay cứu đỡ cho tai qua nạn khỏi, tiền hung hậu kiết hết… Riêng vợ chồng tôi, cô có nói thêm, bất kỳ gặp chuyện nguy nan gì, hãy kêu đến tên cô, cô sẽ về giúp cho, phải ráng vững lòng tin. Thật tình mà nói, tuy tôi chứng kiến nhiều chuyện rất lạ lùng của cô em tôi đã làm, nhưng chuyện cô ta nói sẽ cứu cho cả gia đình tôi thoát ra khỏi hoàn cảnh khó khăn hiện tại, tôi không tin tưởng chút nào hết cả !! Có mấy ai ở vào hoàn cảnh của chúng tôi lúc bấy giờ mà còn vững lòng tin vào những lời nói của cô ấy chứ? Tuy nghĩ thế nhưng tôi không dám  nói ra.

      Không lâu sau đó, gia đình tôi bán hết nhà cửa đất đai ở ấp Hưng Bình, dắt díu nhau về Saigon, tá túc ở nhà bà dì, chị ruột của Má tôi. Mặc dù bà dì rất thương gia đình chúng tôi, nhưng bao bọc cho cả đại gia đình chúng tôi vào lúc bấy giờ quả thật là một điều khó khăn vô cùng, không những khó khăn về tài chính, mà còn khó khăn về mặt chính quyền địa phương. Bị kêu lên kêu xuống mấy lần riết gia đình tôi đâm liều, cũng may sau đó có một anh chàng công an khu vực còn trẻ, tánh tình rất dễ chịu không hiểu từ đâu đổi về phụ trách khu vực phường chúng tôi đang ở, thỉnh thoảng tôi cũng mời anh ta đi nhậu, nhưng thật tình mà nói tôi biết không phải vì vấn đề này mà anh ta tốt với gia đình chúng tôi, mà có lẽ vì anh ta thấy gia đình tôi nheo nhóc nên tội nghiệp hay sao đó? Anh ta đã ngó lơ cho gia đình tôi nhiều lần, một vài lần xét hộ khẩu, anh ta cho biết trước để gia đình tôi đi tránh. Nhờ vậy nên cũng đỡ khổ.

          Thời gian này tôi ngồi sửa và bơm quẹt gas sống qua ngày, bà dì tôi có một trường dạy may, bà để cho vợ tôi và hai đứa em gái đứng ra dạy, còn một cô em nữa thì xin được một chỗ bán trong tiệm sách, nói chung cuộc sống tương đối dễ thở hơn lúc trước còn trên rẫy. Đồng thời trong lúc này, nhiều bệnh nhân ngày trước cô em tôi về chữa cho hết bệnh, thấy gia đình chúng tôi quá khó khăn, nên cũng giúp đỡ bằng nhiều cách, sau này có người có thân nhân làm trong UBND quận Phú Nhuận đã giúp đỡ cho gia đình chúng tôi vào được hộ khẩu thành phố.

          Riêng vợ chồng tôi vẫn còn gặp nhiều lận đận lắm, tôi còn bị nạn hai lần tù nữa!! Trong cảnh khổ lại gặp được cứu tinh khác giải nạn cứu vớt chúng tôi, nhưng đó là những câu chuyện khác trong cuộc đời của tôi. (Được ghi lại trong Hồi Ký Chí Hòa đã xuất bản và Hồi Ký Vượt Biên của cùng tác giả)

          Câu chuyện của cô em trong gia đình mà tôi vừa kể quả thật rất kỳ lạ và rất khó tin, nhưng đó là một câu chuyện thật mà cho đến bây giờ, mỗi khi nhớ lại tôi vẫn còn cái cảm giác rợn người. Ngồi viết lại câu chuyện này, tôi không hiểu điều mà cô em tôi nói đã tạo phước cho gia đình ứng nghiệm như thế nào? Nhưng có một điều tôi thấy rất là lạ lùng: Đó là sau khi bán hết nhà cửa đất đai bỏ về Saigon, những may mắn tình cờ đưa đẩy đến, gia đình tôi được nhiều người giúp đỡ, lần lượt bằng những lần vượt biên khác nhau, hơn 10 người đã qua Mỹ được hết mà không tốn kém gì cả. Má tôi và đứa em út cũng được anh em tôi bảo lãnh qua diện đoàn tụ, nhưng vì cuộc sống ở Mỹ không thích hợp với bà, cho nên sau đúng một năm bà đã về lại VN. Giờ đây các anh em tôi, ai cũng có gia đình đàng hoàng, công ăn việc làm ổn định, các con cháu ngoan ngoãn, học hành tốt đẹp... Mặc dù không bằng ai, nhưng chúng tôi cũng cảm thấy thoả mãn lắm rồi. Không biết điều này có phải là kết quả do sự tạo phước trước đó của cô em linh thiêng trong gia đình tôi hay không?? 

Vĩnh Khanh

__._,_.___

Reply to sender | Reply to group | Reply via web post | Start a New Topic

Messages in this topic (1)

Recent Activity:

Chủ Nhật, 27 tháng 11, 2011

Tài liệu tham khảo

Thưa Quý Vị, Quý NT và CH...
Hôm qua chuyển đến Quý Vị bài viết về Henry Kissinger, chúng tôi có lưu ý, bài viết sưu tầm từ Net, không có tên tác giả và có điều khó kiểm chứng..
Để biết thêm về tên ma đầu Do Thái Henry Kissinger....và "sự nghiệp" lọc lừa, gian xảo chính trị của hắn,
hôm nay chúng tôi xin hân hạnh chuyển đến Quý Vị bài viết của một Chiến Sĩ Biệt Động Quân QLVNCH...
có độ khả tín cao...
Xin mời Quý Vị đọc bài viết và thẩm định....
** Cũng xin thưa để Quý Vị được rỏ, cá nhân tôi không thù oán gì đối với dân tộc Do Thái cả,
dù rằng họ bị nhiều người không ưa, thứ nhất là vì ghen tỵ,
như những đồng hương của Obama vẫn công khai gọi dân Do Thái là những kẻ hút máu (bloodsuckers -kinh tế),
tôi chỉ thù ghét tên già Henry Kissinger mà thôi... 

BMH

Washington, D.C

-----Original Message-----
From: charliebrown phuong
To: amsfv
Sent: Fri, Nov 25, 2011 12:22 pm
Subject: Kính chào anh BMH.

Kính gởi anh BMH một bài em mới viết về cuộc đời bí mật của ông Henry A. Kissinger, anh tùy nghi xử dụng.

Kính chúc anh và gia quyến một mùa lễ nhiều niềm vui và may mắn.

Chân thành cảm ơn anh về những bản tin hữu ích mà anh đã chuyển đến trong thời gian qua.

Chào kính trọng.

Đỗ Như Quyên (Đỗ Tấn Thọ)

Người Sông Hàn Đà Nẵng.

Kính thưa Qúy độc giả,

Henry Kissinger là con người đã góp bàn tay đắc lực giao miền Nam cho CS Bắc Việt, một người lính BĐQ đã tra cứu, tham khảo tài liệu để viết về con người này hầu cống hiến cho mọi người VN “tường lãm” – TCDV chân thành cảm tạ anh Đỗ Như Quyên, một người lính Mũ Nâu hiện sinh sống tại Hawaii – Hoa Kỳ.

Germany, 20.11.2011

Chủ Nhiệm TCDV,

Điều Hợp Viên DĐ Ngôn Ngữ Việt.

LÝ TRUNG TÍN

**********************************

Henry Kissinger: Cái Loa Đi Mở Đường Của Siêu Quyền Lực.


MN ĐỖ NHƯ QUYÊN

"Cứ mổi khi con người này ra mặt hội họp tuyên bố gì đấy, hoặc có sách mới v.v thì y như rằng ở đâu đó trong thiên hạ có loạn to chập chờn đe dọa. Hôm nay chúng ta thử tìm hiểu sơ qua về con người nhiều bí ẩn này".
(BĐQ Đỗ Như Quyên)

Tên họ thật: Heinz Alfred Kissinger, gốc dân Do Thái, sinh ở Đức ngày 27. 5. 1923, theo gia đình tới Mỹ định cư vào tháng 8. 1938. Gia nhập quân đội Mỹ tháng 2.1943 rồi vô quốc tịch Mỹ ngày 19. 6.1943, tên Heinz đọc theo âm tiếng Đức đổi thành Henry theo tiếng Anh. Sau 16 tuần huấn luyện tại North Carolina , ông Kissinger ra trường với cấp binh nhì và được đưa về Sư Đoàn 84 Bộ Binh ở Clairborne , Louisiana . Đầu tháng 10. 1944 SĐ 84/BB đến nước Anh, sau đó đổ bộ lên bãi Omaha ( Normandy , Pháp) vào đầu tháng 11. 1944 (nghĩa là ông Kissinger không tham dự ngày đổ quân lịch sử -6.6.1944) rồi tiến quân mặt trận Hòa Lan, kế tiếp là Bỉ cuối cùng vào chiến trường Đức. Sau khi Đức đầu hàng (8.5.1945), ông Kissinger được vị Tư Lệnh SĐ 84/BB là Thiếu Tướng Alexander R. Bolling (1895-1964) chọn làm thông dịch viên. Đầu năm 1946, ông ta lên cấp trung sĩ và được gởi đi học ở Trường Tình Báo-Bộ Tư Lịnh Âu Châu (European Command Intelligence School) tại thành phố Oberammergau của Đức. Tháng 5.1946 ông Kissinger được giải ngũ, nhưng không về Mỹ ngay mà nấn ná ở lại Đức để chú tâm nghiên cứu về vấn đề Hội Kín (Secret Society) của Âu Châu qua hàng đống tài liệu Đức Quốc Xã bỏ lại.

Tháng 7.1947, ông Kissinger quay về Mỹ và xin được một học bổng vào trường đại học Harvard (cũng nên biết thêm là những trường đại học như Harvard; Yale; Princeton; Oxford; Sorbonne là những trường do các nhóm Hội Kín có nguồn gốc ở Âu Châu thành lập từ thế kỷ thứ 19. Mục đích sâu xa của đám ma đầu này lúc lập trường là sẽ thu hút và chiếm hữu hết những nhân tài khắp thế giới bằng tiền - danh và lợi đối với những sinh viên biểu lộ sự thông minh đặc biệt, hay ít ra chúng cũng đào tạo được những con người, mà Hội Kín gọi là "phụ tùng", trong tương lai sẽ phục vụ đắc lực cho bộ máy thống trị toàn thế giới gồm toàn những con người được nhào nặn theo khuôn mẫu của "văn hóa" Âu Châu). Năm 1950 ông Kissinger có bằng B.A, năm 1952 lấy bằng M.A và năm 1954 có được bằng Ph.D.
Trong thời gian học ở Harvard ông ta được ưu đãi đặc biệt, vì trường này vốn có một nguồn tài chánh dồi dào do CIA bí mật tài trợ qua một tổ chức trá hình là Hội Học Sinh Quốc Gia (National Student Association. Hội này đã bị "bể" năm 1967 do công chúng phanh phui).
Từ năm 1950, lúc còn đang "học" ông Kissinger đã được bí mật tuyển làm cố vấn cho Phòng Nghiên Cứu Các Chiến Dịch- Lục Quân (Army-Operations Research Office).
1951: Được cử tới Nam Hàn tìm hiểu về "mức độ ảnh hưởng tâm lý của dân chúng về sự có mặt của quân đội Mỹ".
1952: Bí mật được chọn làm cố vấn cho Ủy Ban Chiến Lược Tâm Lý thuộc Bộ Tham Mưu Liên Quân (Psychological Strategy Board of the Joint Chiefs of Staff).
1955: Được Hội Kín ở Mỹ cho làm chủ bút tạp chí Ngoại Giao Sự Vụ (Foreign Affairs magazine). Tạp chí này tuy thuộc "tư nhân", nhưng nó là cái loa chính thức và đầy quyền lực đặt ở Mỹ của vương triều nước Anh và con cháu của giới quý tộc tại Châu Âu ( Ở bên Tây, ban đầu nó được trung ương Ủy Hội Tam Điểm (Trilateral Commission) lập ra trong một phòng kín ở khách sạn Majestic, thủ đô Balê nước Pháp vào ngày 30.5.1919 và nấp dưới một cái tên thật "hiền" là Viện Quốc Tế Sự Vụ (Institute of International Affairs), ông HCM cũng là hội viên Tam Điểm từ thuở đó nên ngày nay Đảng Cộng Sản Việt Nam có họ hàng, dây mơ rễ má với tài phiệt quốc tế là chuyện đương nhiên. Viện Quốc Tế Sự Vụ có hai chi nhánh, một nằm ở Anh là Học Viện Hoàng Gia về Quốc Tế Sự Vụ (Royal Institute of International Affairs- RIIA), một nằm tại Mỹ từ ngày 21.7.1921 là Hội Đồng về Các Quan Hệ Đối Ngoại (Council on Foreign Relations- CFR) cùng với cái loa của nó là tạp chí Ngoại Giao Sự Vụ. Từ ngày đó đến hôm nay, cái loa này của RIIA và CFR mới là "đầu sỏ" làm trùm hết tất cả các hãng điện thoại, truyền hình và những tờ báo v.v lớn nhất, mạnh nhất của nước Mỹ vì giới chủ nhân của truyền thông Mỹ đều là hội viên của các Hội Kín trong bí mật, ngoài công khai họ là hội viên của CFR. Ngoài ra, các tổng thống Mỹ, tất cả giám đốc CIA, bộ trưởng quốc phòng, ngoại giao, tài chánh, y tế, giáo dục, thương mại v.v cho tới chủ những siêu công ty về hàng không, hàng hải, xe hơi, dầu hỏa v.v đều là hội viên CFR, một hội "tư nhân" do Hội Kín thành lập (có tới 90% dân chúng Mỹ không biết chuyện này).
1957, ông Kissinger thường được thỉnh giảng ở đại học Harvard, năm 1959 thành phụ tá giáo sư tới năm 1962 chính thức là "giáo sư" của trường này.

Tháng 10. 1965 ông ta âm thầm đến Sài Gòn, Việt Nam. Hội Kín sai ông tới đó để thẩm định phương diện tinh thần và tâm lý của giới quân nhân, chính trị, tôn giáo v.v của người dân Việt Nam Cộng Hòa nói chung trước sự xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt.
Tháng 10. 1966, ông Kissinger "rón rén" tới Sài Gòn một lần nữa để xác định lần chót về nhận xét của mình trước đó đối với tinh thần chống cộng của quân và dân Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi về Mỹ, những ghi nhận của ông về tinh thần dân chúng và giới lãnh đạo VNCH được phúc trình lên chính phủ Mỹ với một nội dung rất lạc quan để trấn an công luận.

Tuy nhiên trong bí mật, ông ta đã phúc trình cho CFR (tức siêu quyền lực, siêu tài phiệt) một sự thật quan trọng mà công chúng không hề biết, đó là: Ý thức về hiểm họa cộng sản và tinh thần chống cộng của người dân VNCH nói chung rất cao. Điều này sẽ là một trở ngại rất lớn, Cộng Sản Bắc Việt rất khó chiếm được miền Nam-Việt Nam theo như kế hoạch mà siêu quyền lực đã soạn ra và chờ đợi. Đây là điểm then chốt nhất nên ngày 27.11.1968, sau khi chọn người và cân nhắc kỹ lưỡng, siêu quyền lực giới thiệu ông Kissinger với vị tổng thống tương lai của Mỹ là ông Richard Milhous Nixon (1913-1994, ông này cũng là hội viên cao cấp của CFR và nhiều Hội Kín khác). Sau đó tổng thống "tân cử" R.M.Nixon đưa ông Kissinger vô nắm Hội Đồng An Ninh Quốc Gia (National Security Council) và từ đây ông ta bắt đầu đại diện cho Hội Kín-không phải đại diện cho dân Mỹ- khởi sự bí mật tiếp xúc, dàn xếp các thỏa thuận với CSBV.
Nhưng năm 1955 mới là năm mà cuộc đời ông Henry A. Kissinger rẽ qua một bước ngoặc quan trọng. Tại một hội nghị về chiến lược quân sự ở Quantico, Virginia ông ta được giới thiệu với ông Nelson Aldrich Rockefeller (1908-1979). Ông này thuộc "đảng" Cộng Hòa, từng có mặt trong nhiều nội các chính phủ của những tổng thống như các ông Franklin Delano Roosevelt (1882-1945, hội viên cao cấp của nhiều Hội Kín); Harry S. Truman (1884-1972, hội viên cao cấp của nhiều Hội Kín); Dwight David Eisenhower (1890-1969, hội viên cao cấp của nhiều Hội Kín) và Richard Milhous Nixon (1913-1994, hội viên cao cấp của nhiều Hội Kín). Ông Nelson Aldrich Rockefeller còn là Thống Đốc Tiểu Bang Nữu Ước từ năm 1959 tới 1973, từng là Phó Tổng Thống (1974-1977) cho ông Gerald Rudolph Ford, Jr (1913-2006, hội viên cao cấp của nhiều Hội Kín). Ông ta là con của ông John Davison Rockefeller, Jr (1874-1960) và là cháu nội của ông "vua dầu hỏa" John Davison Rockefeller, Sr (1839-1937, lưu ý là tất cà những người đàn ông trong giòng họ Rockefeller đều là hội viên cao cấp của nhiều Hội Kín). Sau cuộc gặp gỡ "lịch sử" đó và thêm vài lần nữa, ông Kissinger được gia tộc Rockefeller mời làm cố vấn cho Quỹ Huynh Đệ Rockefeller và từ 1956 tới 1958 là Giám Đốc của Dự Án Những Nghiên Cứu Đặc Biệt cho Qưỹ Huynh Đệ Rockefeller (Director of the Special Studies Project for the Rockefeller Brothers Fund). Từ đó, "sự nghiệp" chính trị của ông Kissinger lên ào ào như diều trước gió, chức cao nhất mà ông giành được là Bộ Trưởng Ngoại giao (1973-1977). Có người cho rằng nếu ông ta sinh ở Mỹ chắc chắn sẽ làm tổng thống hai nhiệm kỳ. Nhưng dù sao chăng nữa những chức vụ mà ông ta có được cũng chỉ là chuyện nhỏ và ngoài công khai. Thật ra trong bóng tối của thế giới siêu quyền lực, ông ta thuộc hạng "lão làng", nắm giữ nhiều vị trí quan trọng trong các Hội Kín và những hiệp hội "tư nhân" (vòng ngoài của Hội Kín) tại nước Mỹ và quốc tế.
Ông Henry A. Kissinger là một người rất say mê có được quyền lực và danh vọng, dù phải nói dối và bội nghĩa bạc tình ông ta cũng làm để thỏa mãn niềm đam mê đó. Ông Kissinger kết hôn với bà Ann Fleischer năm 1949, họ có hai người con nhưng gia đình không được ấm êm vì bà thường than phiền sự vô trách nhiệm của ông đối với gia đình. Năm 1964 ông ta bỏ vợ để được thảnh thơi hoạt động trong trò chơi chính trị kiểu Mỹ. Mãi tới năm 1974, ông Kissinger mới lập gia đình lần nữa với bà Nancy Maginnes sau khi đã ngồi yên vị trong chiêc ghế bộ trưởng ngoại giao.
Ông Kissinger "viết" nhiều nhưng phần lớn những gì ông "viết" không phải do chính ông tìm ra ý tưởng. Ông "viết" cũng như làm một bổn phận, nói ra giùm những chiến lược quan trọng mà siêu quyền lực không thể công khai nói ra (tựa như ông Karl Heinrich Marx (1818-1883) không phải là tác giả thực sự của bản "Tuyên Ngôn Cộng Sản" (The Communist Manifesto, 1.2.1848), ông này được trả tiền để viết theo triết thuyết của một Hội Kín có tên "Hội Của Sự Công Chính" ( The League of the Just), một hội vòng ngoài của một Hội Kín lớn hơn là "Hội Dân Ba Lê Ngoài Pháp Luật" (The Parisian Outlaws League). Ông Kissinger có vài cuốn sách tiêu biểu như: The White House Years (1974); Years of Upheaval (1982); Years of Renewal (1999) v.v..nhưng trước đó trong năm 1957 ông "viết" một cuốn làm thay đổi quan niệm quốc phòng của Liên Bang Mỹ đến tận hôm nay, đó là cuốn "Những Vũ Khí Hạt Nhân và Chính Sách Đối Ngoại" (Nuclear Weapons and Foreign Polycy). Ngoài ra các "bài viết" của ông về đề tài chính trị, ngoại giao, quốc phòng v.v đăng trên các báo, tạp chí thì rất nhiều nhưng nói chung, tất cả những gì ông "viết" và "lách" cũng chỉ là cái loa dọn đường cho Hội Kín và siêu quyền lực. Chỉ nhằm biện hộ cho các "chính sách" trong quá khứ của "chính phủ" Mỹ mà siêu quyền lực điều khiển trong bóng tối. Hoặc ông "viết" cũng như thay mặt Hội Kín nhắc khéo cho thiên hạ biết trước rằng "chính phủ" Mỹ sắp có một kế sách chiến lược chi đó trong tương lai! Vậy thôi.
Suy ra ông Henry A. Kissinger cũng chẳng là nhân tài, là anh hùng chi cả đối với nền "hoà bình" của nhân loại. Nhưng ông ta lại nham nhở đưa tay nhận giải "Nobel Hòa Bình" (sic) cũng do đám Hội Kín bày ra để thưởng công cho ông. Ông cũng không có chút công lao gì đối với một nước Mỹ đã bị mất chủ quyền vào tay Hội Kín và siêu quyền lực. Ngược lại, chỉ riêng trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam thôi ông đã sĩ nhục công chúng Mỹ khi lén lút thỏa hiệp với đối phương. Ông đã làm cho hàng chục triệu gia đình Việt Nam; Cam Bốt; Mỹ; Lào tới tận hôm nay vẫn cỏn sống với nhức nhối, khổ đau vì bị mất mát, rẽ chia và thù hận. Nghĩ cho cùng, những thế lực đứng trong bóng tối mới là những kẻ tội ác ngập đầu. Ông Kissinger cũng vì say mê quyền lực và danh vọng nên bị lợi dụng, bị thế lực đó đẩy ra ngoài ánh sáng để nói những điều họ không thể nói ra. Ông ta cũng như Hội Kín và siêu quyền lực chẳng có tài cán gì, chỉ là những kẻ biết vận dụng cách nắm quyền lực mà không cần lộ diện. Biết cách tìm người đáng tin cậy, trao quyền để làm những gì có lợi cho mục tiêu cuối cùng của họ là thống trị toàn thế giới dưới nền "văn minh thực dụng" của Âu Châu.
Vài năm gần đây ông Kissinger lại xuất hiện và tuyên bố vung vít đủ điều.
Tháng 5.2011 ông ta ra mắt cuốn sách mới là On China (Penguin,2011). Như đã nói ở phần đầu, mỗi khi ông này có "sách" mới thì đâu đó trong thiên hạ sắp có loạn to! Bởi nhờ có loạn thì siêu quyền lực mới có cớ đi chinh phạt và thâu tóm dần dần cũng như phát triển ảnh hưởng của mình. Và mầm mống của loạn lạc cũng do siêu quyền lực tạo ra từ trong bóng tối. Tại sao con người này không chết phức cho rồi?
.........o.........

Nguồn tham khảo: "The Price of Power. Kissinger in the Nixon White House". Seymour M. Hersh. Summit Book, NY, 1983.
"Kissinger". Marvin Kalb and Bernard Kalb. Little, Brown and Company, 1974.
"Rule By Secrecy". Jim Marrs. Harper Collins, 2001.
"The Invisible Government". David Wise and Thomas B. Ross. Random House, 1964.
"The Unseen Hand". Ralph A. Epperson. Publius Press, 1985.
"Who Stole the American Dream" ? Burke Hedges. INTI Publications, 1992.
"Who Owns America " ? Walter J. Hickel. Warner Paperback, 1972.
"Who's Running America " ? Thomas R. Dye. Prentice-Hall, 1986.
"Who Rule's America " ? William G. Domhoff. Prentice-Hall, 1967.
"Wake-up America . It's Latter Than You Think" ! Robert L. Preston. Hawkes Publishing Inc, 1972.
"None Dare Call It Conspiracy". Gary Allen. Concord Press, 1971.
"None Dare Call It Treason". John A. Stormer. Liberty Bell Press, 1964.
"Secret Societies of America 's Elite". Steven Sora. Destiny Books, 2003.
"Conspiracies and Secret Societies. The Complete Dossier". Brad Steiger and Sherry Steiger. Visible Ink, 2006.
"The Biggest Secret". David Icke. Bridge of Love , 2001.

Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2011

Danh Sách Sỉ Quan Hải Quân VNCH

Danh-Sách Khoá 1 :

1) Đoàn-Ngọc-Bích      

2) Chung-Tấn-Cang

3) Trần-Văn-Chơn

4) Nguyễn-Văn-Lịch

5) Lê-Quang-Mỹ

6) Trần-Văn-Phấn

7) Hồ-Tấn-Quyền

8) Lâm-Nguơn-Tánh

9) Lương-Thanh-Tùng

Danh-Sách Khoá 2

1) Khương-Hữu-Bá

2) Đặng-Cần-Chánh

3) Võ-Văn-Chơn

4) Đỗ-Quý-Hợp

5) Đinh-Mạnh-Hùng

6) Nguyễn-Văn-Kinh

7) Ngô-Khắc-Luân

8) Trương-Ngọc-Lực

9) Nghiêm-Văn-Phú

10) Phùng-Nhật-Tân

11) Nguyễn-Văn-Thu

12) Nguyễn-Hữu-Tiễn

13) Nguyễn-Văn-Trụ

Danh-Sách Khoá 3 :

1) Hoàng-Ngọc-Bảo

2) Nguyễn-Thanh-Châu

3) Nguyễn-Hữu-Chí      

4) Phan-Văn-Cổn

5) Lộ-Văn-Dần

6) Trần-Phước-Dũ

7) Vũ-Đình-Đào

8) Phạm-Văn-Đồng

9) Huỳnh-Kim-Gia

10) Vũ-Hiển

11) Nguyễn-Hiền-Năng

12) Nguyễn-Văn-Nhân

13) Bùi-Kim-Nguyệt     

14) Nguyễn-Thiện-Nhựt

15) Nguyễn-Văn-Nhung

16) Trần-Bình-Sang

17) Nguyễn-Văn-Thông

18) Nguyễn-Văn-Thu

19) Diệp-Quang-Thủy

20) Nhan-Chấn-Toàn

21) Lê-Thanh-Truyền

22) Vũ-Anh-Tuấn

23) Nguyễn-Ngọc-Xuân

Danh-Sách Khoá 4 :

1) Nguyễn-An

2) Nguyễn-Văn-Ánh

3) Đỗ-Ngọc-Anh

4) Đặng-Trần-Dzu

5) Trần-Phụng-Đình

6) Nguyễn-Văn-Hoa

7) Phạm-Mạnh-Khuê

8) Phạm-Gia-Luật

9) Tăng-Bá-Long         

10) Võ-Văn-Mười

11) Lê-Kim-Sa

12) Nguyễn-Xuân-Sơn

13) Hồ-Văn-Kỳ-Thoại  

14) Nguyễn-Bá-Trang

15) Bùi-Cửu-Viên

Danh-Sách Khoá 5 :

1) Đinh-Công-Chân

2) Lê-Triệu-Đẩu

3) Vũ-Trọng-Đệ           

4) Nguyễn-Trọng-Hiệp

5) Đặng-Trung-Hiếu     

6) Nguyễn-Công-Hội

7) Nguyễn-Văn-Hớn

8) Trần-Văn-Lâm         

9) Phan-Phi-Long         

10) Nguyễn-Văn-May  

11) Hoàng-Cơ-Minh     

12) Hà-Văn-Ngạc

13) Nguyễn-Thanh-Nhàn          

14) Nguyễn-Phổ

15) Lưu-Đình-Phú        

16) Trần-Bình-Phú

17) Phan-Phi-Phụng     

18) Dương-Văn-Quý

19) Vũ-Ngọc-Riễm       

20) Nguyễn-Tam

21) Nguyễn-Viết-Tân

22) Trịnh-Kim-Thanh

23) Nguyễn-Hữu-Tố

Danh-Sách Khoá 6 :

1) Nguyễn-Văn-Ân      

2) Trần-Văn-Chỉ

3) Phạm-Cừ ( K 3 Brest )

4) Nguyễn-Trọng-Dư

5) Nguyễn-Văn-Học

6) Nguyễn-Trần-Hùng

7) Nguyễn-Đình-Hùng  

8) Đặng-Ngọc-Lân

9) Nguyễn-Đăng-Năng

10) Hoàng-Nam

11) Vũ-Nhân ( K 3 Brest )        

12) Hoàng-Văn-Nhân

13) Bùi-Huy-Phong      

14) Lê-Thuần-Phong

15) Nguyễn-Văn-Tần

16) Nguyễn-Quang-Tộ

17) Bùi-Đức-Trọng

18) Phan-Tự-Trọng      

19) Phạm-Mạnh-Tuân

20) Nguyễn-Trí-Tuệ

21) Nguyễn-Văn-Tường

Danh-Sách Khoá 1 Brest :

1) Nguyễn-Văn-Duyên

2) Nguyễn-Gia-Định

3) Nguyễn-Tân

4) Đặng-Cao-Thăng

5) Vương-Hữu-Thiều

6) Nguyễn-Đức-Vân

7) Nguyễn-Vân

Danh-Sách Khoá 2 Brest :

1) Vũ-Xuân-An

2) Ủ-Văn-Đức

3) Dư-Trí-Hùng

4) Bùi-Văn-Lễ

5) Nguyễn-Kim-Lượng

6) Hồ-Ngọc-Ngà

7) Phương-Xuân-Nhàn

8) Trịnh-Xuân-Phong

9) Nguyễn-Ngọc-Quỳnh

10) Bùi-Tiến-Rũng

11) Nguyễn-Tân ( K1 Brest )

12) Đinh-Gia-Tường

Danh-Sách Khoá 3 Brest :

1) Phạm-Cừ     

2) Nguyễn-Quang-Dật

3) Đặng-Đình-Hiệp       

4) Nguyễn-Văn-Khánh

5) Đỗ-Kiểm     

6) Vũ-Nhân     

7) Nguyễn-Ngọc-Oánh

8) Lê-Phụng     

9) Phạm-Văn-Sanh       

10) Bùi-Hữu-Thư

11) Vũ-Tư-Trực

12) Trịnh-Quang-Xuân

Danh-Sách Khoá 4 Brest :

1) Lê-Triệu-Đẩu

2) Nguyễn-Địch-Hùng

3) Nguyễn-Tiến-Ích

4) Nguyễn-Kim-Lượng ( K2 Brest )

5) Võ-Duy-Ninh

6) Trần-Văn-Sơn

Danh-Sách Khóa 7 : ( Đệ NhấtThiên Xứng)

1) Quản An      

2) Nguyễn-Hồng-Báu

3) Trần-Công-Bình

4) Nguyễn-Văn-Chuyên

5) Nguyễn-Minh-Công  

6) Hồ-Duy-Duyên

7) Bùi-Xuân-Đàm         

8) Lê-Tấn-Đạt

9) Huỳnh-Kim-Gia

10) Trương-Văn-Giỏi

11) Tô-Văn-Hai

12) Trịnh-Hòa-Hiệp

13) Nguyễn-Văn-Hoa

14) Trịnh-Văn-Hoàng

15) Nguyễn-Đức-Huy

16) Đỗ-Quang-Khanh

17) Nguyễn-Trọng-Liêm

18) Trần-Vạng-Lợi

19) Nguyễn-Lũy

20) Ngô-Quí-Mô

21) Hoàng-Nam

22) Nguyễn-Hữu-Ngọc

23) Võ-Nghiệp-Phối

24) Nguyễn-Văn-Quang

25) Thái-Xuân-Quới     

26) Nguyễn-Văn-Quỳnh

27) Phạm-Ngọc-Quỳnh 

28) Nguyễn-Ngọc-Rắc

29) Đoàn-Danh-Tài

30) Nguyễn-Nam-Thanh

31) Nguyễn-Văn-Thiện

32) Huỳnh-Duy-Thiệp

33) Nguyễn-Năng-Thông

34) Lê-Thành-Thọ

35) Đoàn-Văn-Tiếng

36) Phạm-Văn-Tiêu

37) Nguyễn-Văn-Tòng

38) Trần-Văn-Tư

39) Lê-Công-Trí

40) Trần-Văn-Triết

41) Nguyễn-Kim-Triệu

42) Nguyễn-Văn-Tuyên

43) Phạm-Ngọc-Uẩn

44) Lê-Thành-Uyển

45) Hà-Đắc-Vinh

46) Phan-Tấn-Xuân

Danh-Sách Khoá 8 : ( Đệ Nhất Hổ Cáp)

1) Bùi-Đức-Ân

2) Phạm-Duy-Cần

3) Trần-Nhật-Chinh

4) Lưu-Chuyên

5) Bửu-Diên

6) Nguyễn-Văn-Dinh

7) Lê-Hữu-Dỏng

8) Lê-Nghiêm-Dũng

9) Bùi-Xuân-Đàm

10) Đinh-Vĩnh-Giang

11) Nguyễn-Ngọc-Hà

12) Trần-Văn-Hãn

13) Lê-Công-Hảo

14) Trần-Đình-Hoà

15) Võ-Văn-Huệ

16) Trịnh-Tiến-Hùng

17) Tôn-Thất-Hiệu

18) Trần-Kim-Khôi

19) Nguyễn-Ngọc-Khôi

20) Tôn-thất-Kỳ

21) Nguyễn-Thái-Lai

22) Mai-Mộng-Liễn

23) Phạm-Ứng-Luật     

24) Võ-Trọng-Lưu

25) Hồ-Quang-Minh

26) Lê-Huy-Ngân

27) Nguyễn-Văn-Nhựt

28) Nguyễn-Văn-Niệm

29) Nguyễn-Văn-Pháp

30) Liên-Phong

31) Nguyễn-Văn-Phước

32) Đoàn-Văn-Quảng

33) Lê-Hữu-Quýnh

34) Tôn-Thất-Sanh

35) Nguyễn-Thế-Sinh

36) Nguyễn-Công-Tâm

37) Trương-Thanh-Tân

38) Hoàng-Thế-Thái

39) Tạ-Quang-Thành

40) Lý-Thăng

41) Phạm-Thọ

42) Nguyễn-Văn-Thọ

43) Nguyễn-Minh-Thơ

44) Lê-Thương

45) Nguyễn-Viết-Tiến

46) Trần-Đình-Trụ

47) Nguyễn-Duy-Trại

48) Mai-Trọng-Truật

49) Nguyễn-Thành-Út

50) Nguyễn-Tường-Yên

Danh-Sách Khoá 9 : ( Đệ Nhất Nhân Mã)

1) Đặng-Mạnh-Am

2) Trần-Thúy-Bách      

2) Hồ-Ngọc-Báu

4) Trần-Đức-Cử

5) Trần-Văn-Đáo

6) Hồ-Đấu

7) Nguyễn-Đình-Điều

8) Tôn-Thất-Đôn

9) Võ-Tấn-Đời

10) Nguyễn-Hữu-Đức

11) Nguyễn-Phước-Đức

12) Phạm-Ngọc-Gia

13) Ong-Kim-Hên

14) Lê-Tấn-Hiển

15) Mai-Văn-Hoa

16) Lê-Văn-Huấn

17) Nguyễn-Quang-Hùng

18) Nguyễn-Đình-Hùng

19) Phan-Tấn-Hưng

20) Trần-Hương

21) Bùi-Trọng-Kim

22) Hà-Ngọc-Lương

23) Nguyễn-Văn-Lương

24) Nguyễn-Văn-Nhượng

25) Hà-Thúc-Phát

26) Trần-Bá-Phước

27) Lê-Văn-Quế

28) Nguyễn-Công-Tâm

29) Trần-Văn-Tâm

30) Lê-Văn-Thì

31) Nguyễn-Ngọc-Tính

32) Nguyễn-Thành-Tính

33) Lê-Xuân-Thu

34) Trần-Quốc-Tuấn

35) Phan-Tử-Ty

36) Tăng-Hồng-Vân

37) Dương-Hồng-Võ

38) Nguyễn-Hữu-Xuân

Danh-Sách Khoá 10 : (Đệ Nhất Nam Dương)

1) Hồ-Tấn-Anh

2) Vương-Đắc-Ân

3) Lê-Văn-Bình

4) Nguyễn-Đức-Bổng   

5) Huỳnh-Hữu-Cầu      

6) Nguyễn-Thành-Công

7) Vũ-Quốc-Công

8) Bùi-Tân-Cương

9) Võ-Hữu-Danh

10) Hà-Hiếu-Diệp

11) Lưu-Trọng-Đa

12) Trần-Thanh-Điền

13) Nguyễn-Phước-Đức ( K 9 )

14) Hoàng-Hà

15) Nguyễn-Hải

16) Nguyễn-Văn-Hào

17) Ngô-Thế-Hiển

18) Trần-Tiến-Hùng

19) Trần-Nam-Hưng

20) Trần-Thiện-Hữu

21) Nguyễn-Tuấn-Khanh

22) Đỗ-Thế-Khải

23) Nguyễn-ngọc-Khải

24) Bùi-Hùng-Khoát

25) Trần-Đình-Kỳ        

26) Lê-Như-Linh

27) Phạm-Thành-Long

28) Nguyễn-Tri-Mai

29) Lê-Văn-Ngọc

30) Nguyễn-Ngọc

31) Nguyễn-Đại-Nhơn

32) Phạm-Thành-Nhơn

33) Nguyễn-Hữu-Phú

34) Trần-Bá-Phước

35) Ngô-Tấn-Quanh

36) Trần-Công-Quốc

37) Lê-Văn-Rạng

38) Phạm-Đình-San

39) Hoàng-Minh-Tâm ( Cấn-Văn-Tâm )

40) Trần-Ngọc-Thạch

41) Nguyễn-Văn-Thái

42) Đinh-Tuấn-Thành

43) Huỳnh-Ngọc-Thành

44) Dương-Bá-Thế

45) Phạm-Đỗ-Thịnh      

46) Lưu-Phú-Thọ

47) Lê-Bá-Thông

48) Nguyễn-Ngọc-Thông

49) Trần-Mích-Thùy     

50) Lê-Văn-Thự

51) Nguyễn-Mạnh-Trí

52) Nguyễn-Quốc-Trị

53) Châu-Văn

54) Đinh-Tế-Vũ

55) Phan-Ngọc-Xuân

Danh-Sách Khóa 11 : (Đệ Nhất Bão Binh)

1) Nguyễn-A    

2) Phạm-Duy-Anh

2) Nguyễn-Văn-Anh

4) Nguyễn-Phú-Bá

5) Trần-Hữu-Bân

6) Trần-Ngọc-Bảo

7) Hồ-Ngọc-Báu

8) Hoàng-Đình-Báu

9) Võ-Văn-Bảy

10) Nguyễn-Hoài-Bích

11) Trần-Ngọc-Bích     

12) Trần-Đình-Bình

13) Trần-Đỗ-Cẩm

14) Lê-Thượng-Chiêu

15) Lưu-Lương-Cơ       

16) Nguyễn-Văn-Cự

17) Hồ-Đắc-Cung

18) Hoàng-Dần

19) Đặng-Diệm

20) Trần-Thế-Diệp

21) Trương-Văn-Đăng

22) Trương-Quí-Đô

23) Nguyễn-Tấn-Đơn

24) Nguyễn-Châu-Giám

25) Phan-Tứ-Hải          

26) Trần-Trọng-Hải

27) Phạm-Văn-Hàm

28) Trần-Văn-Hoa-Em

29) Lê-Văn-Huê          

30) Đinh-Mạnh-Hùng

31) Phạm-Văn-Hưng

32) Nguyễn-Xuân-Huy

33) Nguyễn-Kim-Khánh

34) Trần-Hữu-Khánh

35) Lý-Anh-Kiệt

36) Võ-Duy-Kỷ

37) Nguyễn-Xuân-Lang

38) Lê-Quang-Lập

39) Nguyễn-Văn-Lộc

40) Lê-Kim-Lợi

41) Vĩnh-Lợi    

42) Nguyễn-Ngọc-Long

43) Trần-Đình-Liệu      

44) Nguyễn-Ngọc-Luân

45) Đặng-Vĩnh-Mai      

46) Hứa-Hồng-Minh

47) Phạm-Văn-Minh     

48) Lê-Thành-Nam

49) Mai-Quang-Nẫm

50) Nguyễn-Nghĩa

51) Nguyễn-Nguyên     

52) Nguyễn-Văn-Ơn

53) Ngô-Tấn-Quanh ( K10 )

54) Võ-Văn-Quợt

55) Lê-Văn-Quí

56) Nguyễn-Ngọc-Quyên

57) Phạm-Trọng-Quỳnh

58) Trương-Hữu-Quýnh

59) Phạm-Đức-Riễn     

60) Nguyễn-Thanh-Sắc

61) Vũ-Hữu-San          

62) Dương-Quang-San

63) Nguyễn-Văn-Tánh  

64) Nguyễn-Minh-Thành

65) Trần-Quang-Thiệu

66) Trịnh-Đình-Thiện

67) Nguyễn-Ngọc-Thông

68) Trương-Văn-Thịnh

69) Phan-Thành-Thuận

70) Võ-Quang-Thủ

71) Phan-Lạc-Tiếp       

72) Phạm-Văn-Thụy

73) Nguyễn-Cao-Toàn

74) Nguyễn-Văn-Tính

75) Vũ-Bá-Trạch

76) Nguyễn-Chí-Toàn

77) Nguyễn-Tường       

78) Trần-Văn-Trung

79) Ngô-Xuân-Ý

80) Bùi-Quang-Vinh

81) Chu-Bá-Yến

Danh-Sách Khoá 12 : (Đệ Nhất Song Ngư)

1) Trần-Ngọc-Anh

2) Nguyễn-Đình-Ấp

3) Trần-Văn-Ba

4) Lê-Như-Bái

5) Nguyễn-Ban

6) Vũ-Văn-Bang

7) Nguyễn-Văn-Bảo

8) Nguyễn-Hoàng-Be

9) Nguyễn-Văn-Bé

10) Lê-Văn-Bình ( K 10 )

11) Lê-Văn-Cát

12) Nguyễn-Văn-Căn

13) Lê-Trọng Cận

14) Nguyễn-Phước-Chắc

15) Lê-Viêm-Côn

16) Nguyễn-Văn-Danh

17) Nguyễn-Văn-Đăng

18) Lê-Phương-Đăng

19) Trần-Thanh-Đào

20) Ong-Văn-Đào        

21) Nguyễn-Khánh-Đông

22) Nguyễn-Ngọc-Giang

23) Nguyễn-Ngọc-Gia

24) Nguyễn-Ngọc-Hà

25) Nguyễn-Văn-Hiền

26) Ngô-Thế-Hiển ( K 10 )       

27) Nguyễn-Văn-Hoa

28) Võ-Duy-Hội

29) Đoàn-Ngọc-Hùng

30) Nguyễn-Hữu-Hùng

31) Trần-Thiện-Hữu ( K 10 )

32) Nguyễn-Văn-Hy     

33) Triệu-Nguyễn-Khâm

34) Nguyễn-Duy-Khanh

35) Nguyễn-Gia-Kiên

36) Ngô-Khuây

37) Nguyễn-Tiến-Lan

38) Nguyễn-Thế-Lang

39) Hồ-Lâm

40) Nguyễn-Đình-Lâm

41) Đỗ-Trọng-Lễ

42) Nguyễn-Khoa-Lô

43) Phạm-Ngọc-Lộ

44) Nguyễn-Lộc

45) Nguyễn-Thiện-Lực

46) Nguyễn-Văn-Minh

47) Nguyễn-Gia-Nam

48) Trần-Trọng-Ngà

49) Huỳnh-Tấn-Nhân

50) Lê-Huệ-Nhi

51) Phan-Hữu-Niệm     

52) Nguyễn-Khương-Ninh

53) Trương-Đình-Ninh

54) Trần-Văn-Phát

55) Hồ-Tấn-Phát

56) Nguyễn-Đa-Phúc

57) Trương-Văn-Phương          

58) Nguyễn-Tạ-Quang

59) Nguyễn-Hưng-Quảng

60) Nguyễn-Duy Quấc

61) Văn-Trung-Quân

62) Trần-Công-Quốc

63) Trần-Đình-Quý

64) Ngô-Sanh

65) Ngô-Văn-Sơn

66) Nguyễn-Sỉ

67) Phạm-Văn-Tạo

68) Trần-Văn-Tâm

69) Võ-Thành-Tâm

70) Khúc-Tánh

71) Ngụy-Văn-Thà

72)Trần-Ngọc-Thạch ( K 10 )

73) Đặng-Hữu-Thân     

74) Đỗ-Công-Thành     

75) Lê-Tấn-Thành

76) Võ-Ngọc-Thành

77) Hà-Tấn-Thể

78) Nguyễn-Trí-Thi

79) Nguyễn-Thìn

80) Nguyễn-Văn-Thiện

81) Phạm-Đình-Thiện

82) Nguyễn-Tấn-Thơ

83) Nguyễn-Trung-Thiều

84) Trần-Hữu-Thu

85) Lê-Đức-Thu

86) Quách-Thuận

87) Nguyễn-Thanh-Thủy

88) Hoàng-Ngọc-Trai

89) Lê-Triều

90) Lê-Tấn-Triệu

91) Nguyễn-Kim-Trọng

92) Nguyễn-Chí-Trung

93) Võ-Văn-Trung

94) Đỗ-Trừ

95) Lê-Cao-Trực

96) Nguyễn-Văn-Tư

97) Nguyễn-Thiện-Từ

98) Hà-Quang-Tự

99) Châu-Ngọc-Tuấn

100) Đỗ-Viết-Viễn

101) Trần-Mạnh-Việt

102) Đoàn-Quang-Vũ

103) Lê-Văn-Xuân

Danh-Sách Khoá 13 : ( Đệ Nhị Dương Cưu)

1) Nguyễn-An

2) Nguyễn-Văn-Anh

3) Phạm-Ngọc-Ấn

4) Đào-Tấn-Bách         

5) Thùy-Trinh-Bạch      

6) Hoàng-Xuân-Bái      

7) Dương-Văn-Bang

8) Nguyễn-Văn-Bào

9) Nguyễn-Thụy-Bích

10) Nguyễn-Xuân-Biên

11) Hoàng-Trọng-Biểu ( K16 Đà-Lạt )

12) Nguyễn-Mạnh-Bình

13) Lê-Văn-Cảnh

14) Phạm-Gia-Chính

15) Nguyễn-Hoàng-Chương

16) Nguyễn-Hồng-Diệm ( K16 Đà-Lạt )

17) Lê-Tiến-Diện

18) Nguyễn-Dinh

19) Nguyễn-Thụy-Đào

20) Nguyễn-Đăng-Đốm

21) Trương-Hoàng-Đông

22) Nguyễn-Minh-Đức

23) Ung-Văn-Đức

24) Đặng-Vũ-Hạ          

25) Võ-Đức-Hà

26) Nguyễn-Văn-Hải

27) Bùi-Tiến-Hoàn       

28) Hồ-Đắc-Hậu

29) Từ-Thiện-Hay

30) Hoàng-Hiền           

31) Nguyễn-Hiệp-Hoài

32) Phi-Ngọc-Khánh    

33) Phạm-Hữu-Khoa

34) Đặng-Phước-Kiếm

35) Nguyễn-Tấn-Kiên

36) Nguyễn-Công-Anh-Kiệt

37) Nguyễn-Đăng-Lạc

38) Hoàng-Trí-Lễ

39) Trần-Ngọc-Liên

40) Nguyễn-Duy-Long

41) Võ-Công-Mạnh

42) Phùng-Gia-Mùi        ( K16 Đà-Lạt )

43) Nguyễn-Văn-Nghiã

44) Tôn-Thất-Nghiã      

45) Lê-Đình-Nghiệp

46) Trương-Trung-Nguyên

47) Phạm-Văn-Phấn     

48) Nguyễn-Xuân-Phô

49) Nguyễn-Như-Phú ( K16 Đà-Lạt )

50) Hạ-Thành-Phúc      

51) Lại-Tích-Phúc

52) Lê-Văn-Phùng

53) Vũ-Xuân-Phương

54) Trương-Văn-Quí    

55) Nguyễn-Văn-Quyền

56) Nguyễn-Văn-Sâm

57) Deleted ( email requested delete Sept 08-2007)

58) Nguyễn-Gia-Song

59) Nguyễn-Hữu-Sử     

60) Huỳnh-Quang-Sửu

61) Đỗ-Hữu-Tài

62) Hoàng-Đình-Tân

63) Nguyễn-Văn-Tân

64) Nguyễn-Quang-Thái

65) Hoàng-Đình-Thanh ( K16 Đà-Lạt )

66) Nguyễn-Văn-Thắng

67) Phạm-Thành

68) Huỳnh-Ngọc-Thành

69) Nguyễn-Hữu-Thoại

70) Đoàn-Trọng-Thông 

71) Lê-Ngọc-Thu

72) Nguyễn-Đình-Thu

73) Nguyễn-Đức-Thu ( K16 Đà-Lạt )

74) Dương-Duy-Thuần

75) Ninh-Đức-Thuận

76) Nguyễn-Văn-Thuận

77) Nguyễn-văn-Thuật

78) Lê-Văn-Thương

79) Lê-Hữu-Thương     

80) Lâm-Nguơn-Tốt     

81) Trần-Thế-Tráng     

82) Mai-Văn-Trị

83) Bùi-Đức-Tu

84) Nguyễn-Văn-Tùng

85) Trần-Thanh-Tùng

86) Phan-Vinh

87) Trần-Như-Ý

Danh-Sách Khoá 14 ( Đệ Nhị Kim Ngưu)

1) Phó-Thái-An

2) Trần-Quốc-Bá

3) Trần-Bá-Bảy

4) Trịnh-Thanh-Bình

5) Nguyễn-Bê

6) Lê-Ngọc-Cảnh

7) Trần-Văn-Căn

8) Hồ-Trung-Chánh

9) Lê-Văn-Chuộng

10) Lê-Trọng-Chúng

11) Lê-Quang-Chương

12) Nguyễn-Văn-Cung

13) Nguyễn-An-Cường

14) Trần-Quốc-Cường

15) Nguyễn-Thành-Danh

16) Nguyễn-Trạch-Dân

17) Phạm-Văn-Diên     

18) Vũ-Trọng-Dụng

19) Lê-Tất-Dũng

20) Phạm-Quang-Đạt

21) Võ-Minh-Đăng

22) Phạm-Mạnh-Đề

23) Ngô-Ngọc-Điệp

24) Đặng-Văn-Đỉnh

25) Ninh-Duy-Định

26) Nguyễn-Đăng-Đóm ( K13 )

27) Nguyễn-Văn-Đơ    

28) Lê-Đơn

29) Nguyễn-Văn-Đông

30) Nguyễn-Văn-Đồng

31) Phạm-Văn-Giác     

32) Nguyễn-Hải

33) Nguyễn-Tiền-Hải

34) Tống-Phước-Hải

35) Trịnh-Long-Hải

36) Trương-Công-Hải

37) Đoàn-Hồng-Hải

38) Nguyễn-Tâm-Hàn

39) Phan-Như-Hoàng

40) Trương-Minh-Hoàng

41) Đoàn-Trọng-Hiệp

42) Phạm-Văn-Hồng

43) Nguyễn-Văn-Hồng

44) Nguyễn-Thế-Hoà

45) Nguyễn-Mạnh-Hùng           

46) Ngô-Trọng-Hùng

47) Trần-Thanh-Khải

48) Trần-Cao-Khải

49) Bùi-Khắc-Kỳ

50) Nguyễn-Văn-Kỳ     

51) Trần-Ngọc-Linh

52) Lâm-Thành-Lực     

53) Nguyễn-Văn-Lưu

54) Nguyễn-Hữu-Lý     

55) Hoàng-Công-Minh

56) Nguyễn-Công-Minh

57) Lê-Văn-Minh

58) Nguyễn-Văn-Mùi

59) Lê-Công-Mừng

60) Nguyễn-Mỹ

61) Hoàng-Đại-Nhân

62) Nguyễn-Thanh-Phong         

63) Võ-Tấn-Phước

64) Huỳnh-Công-Phương

65) Phan-Văn-Phương

66) Phan-Văn-Phưởng

67) Nguyễn-Đức-Quang

68) Bùi-Tiết-Quý          

69) Lê-Văn-Quý

70) Võ-Văn-Quyền

71) Đặng-Hữu-Quyết

72) Bùi-Văn-Sang

73) Huỳnh-Ái-Tân

74) Đoàn-Minh-Tấn      

75) Trầm-Hữu-Tạo

76) Đỗ-Sĩ-Thạc

77) Hoàng-Xuân-Thiết

78) Trần-Bổn-Thiện

79) Nguyễn-Văn-Thông

80) Phùng-Học-Thông

81) Văn-Trung-Thu

82) Trần-Minh-Thuận

83) Dương-Duy-Thuần ( K13 ) 

84) Trần-Mạnh-Thường

85) Nguyễn-Văn-Tiếng

86) Trịnh-Xuân-Tiểu

87) Mai-Văn-Toàn       

88) Nguyễn-Bá-Trác    

89) Tăng-Văn-Trâm     

90) Nguyễn-Hữu-Trang

91) Đinh-Ngọc-Tri

92) Nguyễn-Minh-Tú

93) Tống-Khắc-Tuấn

94) Nguyễn-Hoàng-Tuấn

95) Lê-Anh-Tuấn

96) Trần-Minh-Tuệ       

97) Nguyễn-Thành-Tư

98) Phạm-Văn-Ty

99) Võ-Văn-Tỷ

100) Lê Thiệu Hùng ( bổ túc04-20-2007)

Danh-Sách Khoá 15 : ( Đệ Nhị Song Nam)

1) Nguyễn-Ngọc-Ấn     

2) Trần-Quốc-Bá ( K14 )

3) Phạm-Văn-Bảy

4) Phan-Văn-Bích

5) Hồ-Trung-Chánh ( K14 )

6) Nguyễn-Mộng-Châu

7) Đỗ-Văn-Chim

8) Trần-Quế-Chính

9) Phạm-Văn-Chí

10) Liêu-Chơn

11) Lê-Văn-Chuộng ( K14 )

12) Ngô-Như-Chương

13) Nguyễn-Kim-Chưởng

14) Trần-Quốc-Cường

15) Nguyễn-Thành-Danh

16) Vũ-Duy-Dần

17) Nguyễn-Minh-Diệu

18) Trần-Văn-Du

19) Trần-Văn-Dùng

20) Lê-Khánh-Dư

21) Ngô-Minh-Dương

22) Lê-Văn-Điển

23) Lê-Khắc-Đỉnh

24) Huỳnh-Tấn-Định

25) Đặng-Trọng-Đính

26) Lê-Đình-Đức

27) Nguyễn-Lương-Đường

28) Nguyễn-Hải ( K14 )

29) Nguyễn-Văn-Hào

30) Lê-Khuê-Hào

31) Nguyễn-Văn-Hoà

32) Trần-Chí-Hoạt

33) Dương-Chỉ-Hồng

34) Trần-Văn-Hồng

35) Phạm-Trịnh-Huân

36) Đoàn-Văn-Huệ

37) Nguyễn-Ngọc-Hùng

38) Trần-Cao-Khải

39) Phạm-Xuân-Kha

40) Vương-Quang-Khiết

40) Nguyễn-Tuấn-Khanh

42) Nguyễn-Văn-Kiện

43) Phạm-Huy-Kiên

44) Phùng-Thiện-Lộc

45) Đặng-Quang-Lạc

46) Nguyễn-Văn-Lợi    

47) Nguyễn-Thanh-Lộc

48) Lê-Xuân-Lương

49) Trần-Kim-Long

50) Võ-Minh-Mẫn

51) Nguyễn-Công-Lý

52) Nguyễn-Văn-Minh

53) Trần-Văn-Mến

54) Ngô-Ngọc-Minh

55) Hồ-Dương-Minh

56) Hồ-Văn-Nam

57) Nguyễn-Anh-Minh

58) Nguyễn-Hữu-Ngàn

59) Nguyễn-Võ-Nam

60) Lê-Văn-Phong

61) Võ-Hữu-Nghiã

62) Nguyễn-Văn-Phước

63) Phạm-Đình-Phùng

64) Nguyễn-Văn-Quang

65) Lương-Văn-Phước

66) Hoàng-Phước-Quyến

67) Phạm-Hùng-Quang

68) Phan-Văn-Sanh

69) Phạm-Bích-San

70) Tôn-Thất-Phú-Sĩ

71) Nguyễn-Văn-Sáu

72) Phan-Thanh-Sử

73) Nguyễn-Văn-Sum

74) Huỳnh-Hữu-Sương

75) Nguyễn-Văn-Sương

76) Võ-Văn-Tám

77) Phạm-Hữu-Tài       

78) Trần-Văn-Thảo      

79) Nguyễn-Thế-Tế

80) Lâm-Khả-Thanh     

81) Nguyễn-Văn-Thành

82) Nguyễn-Kim-Thăng

83) Nguyễn-Văn-Thắng

84) Nguyễn-Hữu-Thiện

85) Trần-Bổn-Thiện ( K14 )      

86) Nguyễn-Phước-Thọ

87) Nguyễn-Văn-Thịnh

88) Hà-Thúc-Thụy       

89) Nguyễn-Minh-Thoại

90) Trịnh-Như-Toàn     

91) Huỳnh-Văn-Tỏ

92) Phan-Văn-Trạng    

93) Đào-Vĩnh-Tống      

94) Trần-Khắc-Trí

95) Trần-Văn-Trí         

96) Tạ-Văn-Triết          

97) Võ-Văn-Trí

98) Trần-Vĩnh-Trung

99) Phan-Tấn-Triệu      

100) Vương-Thế-Tuấn

101) Vũ-Đình-Tuấn

102) Lê-Văn-Vinh        

103) Bùi-Tỵ

104) Hoàng-Mộng-Xuyên

105) Dư Xinh

106) Mai-Viết-Xuân

107) Nguyễn-Trường-Yên

Danh-Sách Khoá 16 : ( Đệ Nhị Bắc Giải)

1) Võ-Văn-Á   

2) Lý-Ngọc-Ẩn

3) Nguyễn-Văn-Ba

4) Nguyễn-Văn-Bân

5) Nguyễn-Ngọc-Bích

6) Trịnh-Trọng-Bình

7) Đoàn-Văn-Bường    

8) Cao-Đình-Cần

9) Phan-Bội-Chân

10) Nguyễn-Mộng-Châu ( K15 )

11) Nguyễn-Ngọc-Châu

12) Tôn-Long-Châu

13) Nguyễn-Đình-Châu

14) Nguyễn-Kim-Chường ( K15 )

15) Phạm-Tiến-Cương

16) Lê-Cư

17) Trần-Văn-Dùng      

18) Trần-Văn-Dùng ( K15 )

19) Vũ-Hữu-Dũng

20) Lương-Ngọc-Diệp

21) Đặng-Huy-Đạm     

22) Lâm-Ngọc-Đảnh

23) Vũ-Bá-Đào

24) Lê-Tấn-Đạt

25) Võ-Văn-Đô

26) Nguyễn-Kim-Đồng

27) An-Văn-Điện

28) Diệp-Được

29) Trang-Minh-Đường

30) Hà-Quang-Hải       

31) Lê-Tứ-Hải

32) Nguyễn-Minh-Hải

33) Trần-Bá-Hạnh        

34) Hoàng-Minh-Hào

35) Vũ-Thế-Hiệp

36) Phạm-Xuân-Hoa

37) Phan-Văn-Hoá

38) Trần-Cao-Hoài

39) Trần-Hoàng-Hoanh

40) Trần-Đức-Huân

41) Nguyễn-Văn-Huệ

42) Lê-Văn-Hùng

43) Nguyễn-Thanh-Hùa

44) Bùi-Văn-Hưng       

45) Huỳnh-Quang-Hưng           

46) Phạm-Huy-Hy

47) Võ-Hương

48) Võ-Bửu-Khai

49) Nguyễn-Hữu-Ích

50) Phạm-Vũ-Kim        

51) Phan-Huy-Kiên       ( K15 )

52) Nguyễn-Văn-Lâm

53) Nguyễn-Văn-Lang  

54) Vương-Bảo-Long   

55) Hồ-Văn-Lãng         

56) Võ-Anh-Luông       

57) Ninh-Thế-Lung

58) Trịnh-Xuân-Mai      

59) Phạm-Văn-Lý        

60) Nghiêm-Doãn-Minh

61) Phạm-Đức-Mău

62) Lê-Tài-Nghiã

63) Hoàng-Trọng-Ngân

64) Lê-Lương-Ngô

65) Nguyễn-Văn-Nghiã

66) Tạ-Cự-Nguyên

67) Nguyễn-Hoàng-Nguyên

68) Đỗ-Đăng-Phái

69) Nguyễn-Khắc-Nham

70) Nguyễn-Văn-Phong

71) Phạm-Bách-Phi      

72) Nguyễn-Duy-Quan

73) Nguyễn-Vinh-Phong

74) Lê-Xuân-Quang     

75) Đỗ-Đình-Quang

76) Liêu-Quyên

77) Huỳnh-Văn-Quắn

78) Trần-Cao-Sạ

79) Lê-Thúc-Quỳnh      

80) Nguyễn-Văn-Sinh

81) Nguyễn-Đình-Sài    

82) Nguyễn-Xuân-Sơn

83) Trịnh-Thiếu-Sinh     

84) Phạm-Hữu-Tài ( K15 )

85) Lâm-Tấn-Tài          

86) Nguyễn-Hải-Tâm

87) Hồ-Xuân-Tành       

88) Trần-Thanh-Tâm

89) Nguyễn-Minh-Tâm 

90) Nguyễn-Văn-Tần

91) Trần-Hữu-Tân        

92) Nguyễn-Thế-Tế ( K15 )

93) Dương-Văn-Tèo     

94) Trần-Văn-Thái

95) Trương-Văn-Thạch

96) Vũ-Công-Thành     

97) Trần-Ngọc-Thanh

98) Trần-Bá-Thọ

99) Nguyễn-Đình-Thiện            

100) Lý-Thành-Thông

101) Vũ-Ngọc-Thọ       

102) Bùi-Trung-Thu      

103) Trương-Quang-Tích          

104) Nguyễn-Văn-Thuận

105) Hà-Xuân-Thụ       

106) Lê-Thiện-Thuật    

107) Nguyễn-Lương-Thuật       

108) Chu-Văn-Tiến

109) Lê-Văn-Thự         

110) Vũ-Văn-Tòng       

111) Đỗ-Nhân-Tiêm     

112) Đường-Minh-Trí

113) Trần-Viết-Trang

114) Võ-Văn-Trí ( K15 )

115) Hoàng-Minh-Trí

116) Phạm-Văn-Trung

117) Ngô-Văn-Trì        

118) Phan-Quang-Trung           

119) Lê-Quang-Trung

120) Bùi-Văn-Trung

121) Lê-Bảo-Trung      

122) Trịnh-Văn-Trỵ

123) Lê-Công-Trứ        

124) Huỳnh-Phước-Tuấn

125) Đặng-Đình-Tuân

126) Ngô-Đức-Tựu      

127) Trịnh-Xuân-Tụng

128) Trần-Tam-Văn

129) Nguyễn-Công-Uông

130) Hồ-Sĩ-Vững

131) Hồ-Ngọc-Văn

132) Đặng-Văn-Vững

133) Nguyễn-Văn-Vân

Danh-Sách Khoá 17 : ( Đệ Nhị Hải Sư)

1) Thái-Văn-A

2) Phan-Đình-Bá

3) Trần-Đình-Bá

4) Đàm-Đình-Bình

5) Nguyễn-Bá-Bường

6) Bùi-Văn-Cán

7) Trần-Ngọc-Cảnh      

8) Nguyễn-Chí-Cần

9) Phạm-Văn-Cần

10) Võ-Văn-Chiêu

11) Đỗ-Văn-Chiểu

12) Phan-Văn-Chín

13) Đào-Quang-Chính

14) Nguyễn-Chính

15) Lê-Bá-Chỉnh

16) Nguyễn-Ngọc-Cơ

17) Nguyễn-Đăng-Cương

18) La-Thành-Danh

19) Nguyễn-Việt-Dân

20) Lương-Ngọc-Diệp

21) Trần-Kim-Diệp

22) Nguyễn-Văn-Diệp

23) Đỗ-Đăng-Doanh

24) Nguyễn-Mạnh-Dũng

25) Đồng-Văn-Dũng

26) Lê-Hoàng-Đạo

27) Nguyễn-Văn-Đạo

28) Nguyễn-Tấn-Đạt

29) Trần-Ngọc-Điển

30) Huỳnh-Công-Định

31) Ngô-Đô

32) Võ-Thành-Đông

33) Nguyễn-Hữu-Đức

34) Ngô-Văn-Giai

35) Lê-Ngọc-Giáo

36) Thềm-Sơn-Hà

37) Nguyễn-Khắc-Hải

38) Đào-Văn-Hải

39) Phan-Thế-Hậu

40) Phạm-Sĩ-Hậu

41) Hoàng-Như-Hiền

42) Lê-Tâm-Hiệp

43) Nguyễn-Võ-Hiệp

44) Mạc-Công-Hiếu

45) Nguyễn-Đăng-Hoa

46) Lê-Hữu-Hoà

47) Phạm-Văn-Hoà

48) Nguyễn-Văn-Hoàng

49) Phạm-Minh-Hoàng

50) Nguyễn-Ngọc-Hội

51) Vũ-Ngọc-Hùng      

52) Quách-Nguơn-Hưng

53) Nguyễn-Tấn-Hưng

54) Lê-Tự-Hưng

55) Nguyễn-Đức-Khải

56) Lương-Khì

57) Đào-Đức-Khiết

58) Phạm-Bá-Khoát

59) Cao-Khương

60) Võ-Kiết

61) Lê-Kim-Kình

62) Hồ-Văn-Lãng

63) Nguyễn-Trần-Lê

64) Võ-Liệp

65) Nguyễn-Bá-Lộc     

66) Trần-Trọng-Lộc

67) Dương-Phát-Lợi     

68) Nguyễn-Khắc-Long

69) Nguyễn-Thành-Long

70) Hà-Ngọc-Lưu

71) Đoàn-Ngọc-Lý

72) Lê-Văn-Minh

73) Tôn-Thất-Minh

74) Trần-Văn-Minh

75) Nguyễn-Văn-Muội

76) Hồ-Văn-Năm

77) Ngô-Văn-Ngàn      

78) Đặng-Văn-Ngãi

79) Hoàng-Trọng-Ngân

80) Nguyễn-Bích-Ngân

81) Nguyễn-Đức-Nghiã

82) Nguyễn-Ngọc

83) Đỗ-Đăng-Phái

84) Nguyễn-Châu-Phú

85) Nguyễn-Hữu-Phúc

86) Trần-Văn-Phương

87) Nguyễn-Thành-Phước

88) Trương-Ngọc-Phước

89) Nguyễn-Văn-Phước

90) Nguyễn-Xuân-Quang

91) Đỗ-Văn-Quả

92) Đỗ-Ngọc-Quảng

93) Đặng-Văn-Quảng

94) Nguyễn-Văn-Sáu

95) Trần-Văn-Siêng

96) Nguyễn-Văn-Sơn

97) Trần-Trọng-An-Sơn

98) Vũ-Trọng-Sơn

99) Nguyễn-Văn-Sung

100) Hồ-Văn-Tạo

101) Nguyễn-Trung-Tâm

102) Bùi-Văn-Tẩu

103) Trương-Vĩnh-Thái

104) Đỗ-Ngọc-Thạch

105) Lương-Lễ-Thành

106) Lâm-Hữu-Thạnh

107) Tạ-Nhựt-Thăng

108) Đào-Văn-Thảo

109) Phạm-Trọng-Thu

110) Từ-Khánh-Thuận

111) Lê-Văn-Thự

112) Nguyễn-Tiếp

113) Trịnh-Xuân-Tiểu

114) Vũ-Thế-Tiệp

115) Vũ-Văn-Tình

116) Phạm-Bá-Toàn

117) Trần-Văn-Toàn    

118) Nguyễn-Văn-Tới

119) Đường-Minh-Trí

120) Nguyễn-Thành-Trí

121) Dương-Văn-Trình

122) Võ-Quốc-Trị

123) Trần-Vĩnh-Tuấn

124) Nguyễn-Văn-Từ

125) Phan-Mạnh-Tường

126) Ngô-Đức-Tựu

127) Huỳnh-Văn-Tý     

128) Nhan-Vân

129) Nguyễn-Minh-Vân

130) Nguyễn-Thanh-Vân

131) Trần-Văn-Vân

132) Trần-Văn-Vấn

133) Trương-Thanh-Việt

134) Huỳnh-Văn-Vẽ

135) Ngô-Văn-Xinh      

136) Lê-Văn-Xuân

Danh-Sách Khoá 18 : ( Đệ Nhị Xử Nữ)

1) Bùi-Ngọc-Anh

2) Phan-Chánh-Bang

3) Lê-Trọng-Bằng

4) Nguyễn-Văn-Bé

5) Phạm-Văn-Binh       

6) Trương-Xuân-Bình

7) Nguyễn-Bốn

8) Nguyễn-Văn-Ca

9) Trần-Đình-Can

10) Huỳnh-Ngọc-Cẩn

11) Đỗ-Văn-Cảnh

12) Phạm-Phú-Châu

13) Bùi-Thiện-Chí

14) Nguyễn-Chung

15) Lê-Bá-Chư

16) Phạm-Văn-Cương

17) Mã-Hùng-Cường

18) Trần-Hữu-Cưu

19) Đào-Dân    

20) Vũ-Tiến-Diệp

21) Huỳnh-Ngọc-Duẫn

22) Lê-Dung

23) Phan-Tử-Duy

24) Lê-Văn-Đàm

25) Nguyễn-Minh-Đắc

26) Nguyễn-Kim-Đạo

27) Huỳnh-Công-Để     

28) Đặng-Ngọc-Điền

29) Phạm-Thụy-Điển

30) Trần-Đăng-Độ

31) Nguyễn-Văn-Đồng

32) Đặng-Trọng-Đức

33) Phan-Đức

34) Trần-Văn-Đức

35) Nguyễn-Sơn-Hà     

36) Từ-Thanh-Hà

37) Trần-Chấn-Hải       

38) Nguyễn-Chánh-Hàm

39) Nguyễn-Thế-Hiệp

40) Tôn-Thất-Hiếu

41) Nguyễn-Văn-Hoà

42) Trương-Văn-Hoà

43) Thái-Thành-Huệ     

44) Hồ-Chí-Hùng

45) Trần-Quang-Hùng

46) Lê-Quí-Huy

47) Nguyễn-Quốc-Hưng

48) Nguyễn-Công-Khanh

49) Nguyễn-Thuế-Khoa

50) Nguyễn-Duy-Khương

51) Trần-Ngọc-Lĩnh     

52) Lâm-Kim-Luôn

53) Nguyễn-Mai

54) Doãn-Mãn

55) Nguyễn-Văn-Minh

56) Đặng-Văn-Mỹ

57) Từ-Nam

58) Trần-Kim-Ngọc

59) Hà-Duy-Nhẩm       

60) Dương-Minh-Nhựt

61) Cao-Thanh-Phong

62) Nguyễn-Thanh-Phong

63) Phan-Quang-Phúc

64) Trần-Minh-Phúc

65) Lê-Quang-Phục      

66) Nguyễn-Phụng

67) Đỗ-Quảng

68) Quách-Quảng

69) Phạm-Quế

70) Phạm-Hồng-Sanh

71) Phạm-Văn-Sơm     

72) Đoàn-Xuyên-Sơn

73) Lê-Minh-Tâm

74) Bùi-Văn-Tẩu ( K 17 )

75) Luyện-Thái

76) Nguyễn-Ngọc-Thành

77) Võ-Văn-Thành

78) Trần-Đức-Thành    

79) Bùi-Ngọc-Thạnh     

80) Trịnh-Thông

81) Hồ-Thống

82) Huỳnh-Duy-Thưởng

83) Nguyễn-Văn-Tiến

84) Đỗ-Kim-Tiếng

85) Nguyễn-Tự-Trân

86) Nguyễn-Văn-Tranh

87) Trần-Đại-Trung      

88) Vương-Đại-Trung

89) Trần-Anh-Tuấn

90) Phạm-Duy-Tùng

91) Huỳnh-Kim-Tỷ       

92) Lê-Văn-Vẻ

93) Nguyễn-Huy-Việt

94) Trần-Vinh

95) Nguyễn-Thanh-Xuân

96) Mai văn Bôn

97) Nguyễn Đức Hòa
98) Nguyễn Trung Ích

99) Phạm Hồng Nhựt
100) Trần Đình Sở

101)  Lê Văn Thắng

Danh-Sách Khoá 19 : ( Đệ Nhị Thiên Xứng)

1) Trần-Đình-An

2) Trương-Thanh-An

3) Huỳnh-Anh

4) Võ-Anh

5) Đinh-Bá-Ánh

6) Nguyễn-Ngọc-Ánh

7) Nguyễn-Đình-Ấm

8) Đồng-Văn-Ba

9) Nguyễn-Văn-Bá

10) Nguyễn-Ngọc-Ban

11) Vũ-Văn-Bang

12) Nguyễn-Văn-Bé

13) Đỗ-Quang-Bích      

14) Trần-Văn-Bính

15) Trần-Văn-Bình

16) Nguyễn-Bình

17) Trần-Văn-Bửu

18) Lê-Văn-Các

19) Tống-Chiêu-Cầm

20) Phạm-Viết-Chẩn

21) Lê-Minh-Chánh

22) Lê-Văn-Châu

23) Ngô-Thanh-Chi      

24) Nguyễn-Kháng-Chiến

25) Mai-Hữu-Chiếu      

26) Nguyễn-Minh-Chính

27) Đặng-Văn-Cho       

28) Lê-Đức-Chuẩn

29) Trương-Văn-Chung

30) Nguyễn-Huy-Chương

31) Nguyễn-Văn-Có     

32) Trương-Bá-Côn

33) Nguyễn-Đức-Công

34) Nguyễn-Văn-Cúc

35) Nguyễn-Cư

36) Nguyễn-Đình-Cương

37) Võ-Thành-Cương

38) Nguyễn-Hưng-Cường

39) Phan-Hữu-Danh     

40) Nguyễn-Xuân-Diên

41) Hồ-Văn-Diệp

42) Trần-Ngọc-Diệp

43) Nguyễn-Dụng

44) Đào-Trung-Dũng

45) Lê-TrungDũng

46) Lưu-Thái-Dũng

47) Nguyễn-Tuấn-Dũng

48) Nguyễn-Việt-Dũng

49) Phan-Anh-Dũng     

50) Phó-Anh-Dũng

51) Nguyễn-Phùng-Duyên

52) Nguyễn-Hữu-Duyệt

53) Hoàng-Công-Dược

54) Thái-Dưỡng

55) Phan-Văn-Đa         

56) Mai-Văn-Đạc

57) Ngô-Văn-Đảng      

58) Đặng-Đình-Đạt

59) Lương-Văn-Đỉnh    

60) Nguyễn-Văn-Định

61) Hồ-Kim-Đông        

62) Nguyễn-Hữu-Tô-Đồng

63) Đoàn-Hồng-Đức

64) Đỗ-Thành-Đức

65) Nguyễn-Văn-Đức

66) Lê-Văn-Được

67) Thái-Văn-Được      

68) Ngũ-Hà

69) Phạm-Ngọc-Hà      

70) Vương-Hà

71) Lê-Văn-Hà

72) Trịnh-Văn-Hai

73) Nguyễn-Đình-Hải

74) Phạm-Phú-Hải

75) Phan-Hồ-Hải

76) Trần-Mạnh-Hải

77) Trần-Văn-Hải        

78) Trịnh-Học-Hải

79) Trương-Văn-Hải    

80) Trương-Văn-Hải

81) Đỗ-Văn-Hạnh

82) Võ-Ngọc-Hạnh

83) Nguyễn-Nghiã-Hiệp

84) Bùi-Thế-Hiền

85) Bùi-Huỳnh-Hoa

86) Hồ-Ngọc-Hoa

87) Vũ-Viết-Hoà

88) Phạm-Văn-Hoan

89) Huỳnh-Minh-Hoàng

90) Nguyễn-Hoàng

91) Nguyễn-Thanh-Hoàng

92) Nguyễn-Đình-Hồng

93) Nguyễn-Trí-Hồng

94) Trần-Đức-Hợp

95) Lê-Văn-Huệ

96) Nguyễn-Văn-Huệ

97) Bùi-Việt-Hùng

98) Dương-Tấn-Hưng

99) Đỗ-Thế-Hùng

100) Hoàng-Huy-Hùng

101) Nguyễn-Hùng       

102) Nguyễn-Đức-Hùng

103) Phạm-Văn-Hùng

104) Trịnh-Hùng

105) Võ-Kim-Huy

106) Trần-Cẩm-Huyền

107) Nguyễn-Ngọc-Hùa

108) Ngô-Tiến-Hưng

109) Nguyễn-Duy-Hưng

110) Huỳnh-Phú-Hữu

111) Lâm-Nhựt-Khánh

112) Ngô-Sơn-Khánh

113) Nguyễn-Hữu-Khánh

114) Nguyễn-Công-Khiêm

115) Nguyễn-Hữu-Khiêm

116) Đinh-Tấn-Khoan

117) Nguyễn-Văn-Khương       

118) Trần-Dư-Khương

119) Đào-Sinh-Kim

120) Đặng-Xuân-Kinh

121) Võ-Ngọc-Kinh      

122) Nguyễn-Văn-Kỳ

123) Trương-Tấn-Lạc

124) Trần-Ngọc-Lâm

125) Hùa-Trịnh-Lân     

126) Nguyễn-Nguyên-Long

127) Phan-Đăng-Long

128) Nguyễn-Việt-Long

129) Nguyễn-Việt-Long

130) Trần-Minh-Lộc

131) Trần-Văn-Lợi

132) Mai-Ngọc-Lư

133) Trần-Trọng-Lưu

134) Đặng-Lý

135) Đinh-Ngọc-Lý      

136) Nguyễn-Văn-Lý

137) Nguyễn-Văn-Mai

138) Đỗ-Khắc-Mạnh

139) Hồng-Kim-Mến

140) Huỳnh-Công-Minh

141) Nguyễn-Trí-Minh

142) Mai-Công-Minh

143) Lợi-Cẩm-Minh      

144) Nguyễn-Trọng-Mộng

145) Nguyễn-Bá-Muông

146) Nguyễn-Viết-Mỹ

147) Huỳnh-Hoàng-Nam

148) Nguyễn-Văn-Năm

149) Nguyễn-Hoa-Ngân

150) Đặng-Trung-Nghiã

151) Trần-Hữu-Nghiã

152) Nguyễn-Văn-Ngọc

153) Võ-Thiếu-Ngọc    

154) Nguyễn-Văn-Ngọc

155) Nguyễn-Bỉnh-Ngôn

156) Hàng-Thanh-Nguyên

157) Phó-Thái-Nguyên

158) Lã-Văn-Nguyện

159) Nguyễn-Bá-Nha

160) Lâm-Hữu-Nhã

161) Đinh-Như-Nhiên

162) Đỗ-Thành-Nho

163) Nguyễn-Hữu-Nhơn

164) Vũ-Đình-Nhuần

165) Lê-Văn-Ninh

166) Bùi-Ngọc-Nở

167) Đinh-Hữu-Oanh

168) Nguyễn-Văn-Oanh

169) Nguyễn-Ngọc-Oánh          

170) Huỳnh-Công-Phát

171) Hoàng-Văn-Phi

172) Nguyễn-Thế-Phiệt

173) Phạm-Bùi-Phôi

174) Nguyễn-Đức-Phụng

175) Huỳnh-Hữu-Phước

176) Nguyễn-Hữu-Phước

177) Nguyễn-Văn-Phước

178) Nguyễn-Văn-Phước

179) Phạm-Văn-Phước

180) Trần-Văn-Phước

181) Trần-Văn-Phước  

182) Lê-Tấn-Phương

183) Lê-Văn-Quá         

184) Trần-Chí-Quan

185) Nguyễn-Đức-Quang

186) Nguyễn-Tấn-Quang

187) Trương-Quang

188) Dương-Mạnh-Quân

189) Phạm-Văn-Quí     

190) Nguyễn-Hữu-Quí

191) Nguyễn-Quýnh

192) Nguyễn-Văn-Quýt

193) Lê-Rĩnh

194) Trương-Văn-Sả

195) Hồ-Sanh

196) Huỳnh-Văn-Sanh

197) Lâm-Sơn

198) Nguyễn-Kỳ-Sơn

199) Nguyễn-Thanh-Sơn

200) Nguyễn-Trung-Sơn

201) Nguyễn-Văn-Sơn

202) Vũ-Đức-Sơn

203) Lê-Thanh-Sử

205) Nguyễn-Văn-Tài

205) Hùa-Công-Tánh

206) Nguyễn-Văn-Tao

207) Lâm-Huy-Tào

208) Đỗ-Văn-Tâm

209) Lê-Công-Tâm       

210) Nguyễn-Văn-Tề

211) Nguyễn-Thái

212) Phạm-Hữu-Thái

213) Lê-Công-Thành

214) Nguyễn-Ký-Thành

215) Vũ-Đức-Thành

216) Cao-Quang-Thảo

217) Huỳnh-Văn-Thắng

218) Trương-Văn-Thì

219) Lê-Chí-Thiện

220) Đỗ-Xuân-Thọ

221) Phạm-Đức-Thoan

222) Nguyễn-Thành-Khôi

223) Võ-Hanh-Thông

224) Lê-Bình-Thu

225) Nguyễn-Văn-Thuận

226) Nguyễn-Hữu-Thượng

227) Bùi-Tiến   

228) Nguyễn-Văn-Tiến

229) Liệt-Tín

230) Trương-Thành-Tính

231) Trần-Văn-Tỉnh     

232) Nguyễn-Bửu-Toàn

233) Trần-Thanh-Tòng

234) Dương-Đức-Trang

235) Nguyễn-Văn-Tràng

236) Trần-Trân

237) Trần-Quang-Trần

238) Trần-Văn-Trình

239) Nguyễn-Trọng

240) Nguyễn-Hùng-Q - Trọng

241) Trần-Văn-Trọng

242) Huỳnh-Văn-Trung

243) Phan-Văn-Trung

244) Trần-Chí-Trung

245) Đào-Lê-Minh-Truyết

246) Ngô-Đồng-Trực

247) Nguyễn-Trực

248) Lâm-Kim-Tuấn

249) Lâm-Phước-Tuấn

250) Phạm-Anh-Tuấn

251) Trần-Tuấn

252) Nguyễn-Bá-Tuế

253) Đinh-Văn-Tùng

254) Trần-Thanh-Tùng

255) Đặng-Vũ-Quang-Tuyên

256) Phùng-Văn-Tuyên

257) Nguyễn-Tấn-Tư

258) Nguyễn-Văn-Tư

259) Phạm-Văn-Tư

260) Lê-Văn-Từ

261) Nguyễn-Hữu-Từ

262) Bùi-Nguyên-Tường

263) Nguyễn-Văn-Tỷ

264) Trần-Phước-Vạn

265) Lương-Minh-Viễn

266) Trần-Trúc-Việt

267) Nguyễn-Văn-Vinh

268) Nguyễn-Văn-Vĩnh

269) Cao-Xuân-Vũ       

270) Hồng-Kiến-Xanh

271) Trần-Xuân

272) Âu-Địch-Xương

Danh-Sách Khoá 20 ( Đệ Nhị Hổ Cáp )

1) Trần-Văn-An

2) Nguyễn-Anh

3) Bùi-Cảnh-Bằng

4) Đỗ-Kim-Bảng

5) Huỳnh-Văn-Bảnh     

6) Lưu-Quốc-Bảo

7) Dương-Văn-Bê

8) Nguyễn-Hữu-Bích

9) Phạm-Ngọc-Bích     

10) Ngô-Trọng-Các

11) Nguyễn-Trọng-Cẩn

12) Phạm-Văn-Cần

13) Trần-Văn-Cần

14) Nguyễn-Minh-Cang

15) Nguyễn-Minh-Cảnh

16) Nguyễn-Văn-Cấp

17) Trần-Đức-Chấn      

18) Trần-Đức-Chấn

19) Lê-Văn-Châu

20) Nguyễn-Ngọc-Châu

21) Nguyễn-Ngọc-Châu

22) Đào-Cơ-Chí

23) Huỳnh-Kim-Chiến

24) Đinh-Văn-Chính

25) Nguyễn-Đức-Chính

26) Nguyễn-Văn-Chín

27) Lê-Quang-Chung

28) Nguyễn-Văn-Chưng

29) Nguyễn-Văn-Chừng

30) Chu-Văn-Chương

31) Nghiêm-Xuân-Chương

32) Võ-Văn-Côi

33) Bùi-Thành-Công

34) Hoàng-Kim-Công

35) Tôn-Thất-Cư

36) Lâm-Ngọc-Cục

37) Tôn-Thất-Cường    

38) Trần-Thanh-Danh

39) Võ-An-Dân

40) Hoàng-Thế-Dân     

41) Hồ-Ngọc-Diệp

42) Phùng-Ngọc-Dòi

43) Nguyễn-Xuân-Dục

44) Nguyễn-Anh-Dũng

45) Lê-Văn-Dũng

46) Hoàng-Văn-Dũng

47) Phan-Thiết-Dũng

48) Phan-Thiệu-Đường

49) Mai-Tất-Đắc

50) Nguyễn-Văn-Đăng

51) Nguyễn-Văn-Đệ

52) Nguyễn-Duy-Điền

53) Nguyễn-Văn-Điền

54) Tô-Ngọc-Điệp

55) Trần-Gia-Định

56) Nguyễn-Văn-Độ     

57) Phạm-Văn-Độ

58) Ngô-Hữu-Đoàn

59) Trịnh-Công-Đoàn

                60) Trần-Tuấn-Đức                  

61) Tiêu-Quang-Đức

62) Đỗ-Văn-Đức

63) Nguyễn-Tấn-Đực

64) Nguyễn-Văn-Được

65) Nguyễn-Văn-Gẫm

66) Trần-Mạnh-Hà

67) Võ-Văn-Hạc

68) Võ-VănHai

69) Lê-Như-Hải

70) Nguyễn-Hải

71) Bùi-Tá-Hải

72) Nguyễn-Hữu-Hải

73) Đỗ-Minh-Hào

74) Lê-Văn-Hậu

75) Lê-Vĩnh-Hiệp

76) Tăng-Văn-Hiệp

77) Vũ-Quốc-Hiệp

78) Lư-Đức-Hiệp

79) Ngô-Minh-Hiếu

80) Trương-Văn-Hiếu

81) Nguyễn-Hoá

82) Bùi-Đình-Hoan

83) Nguyễn-Duy-Hoà

84) Nguyễn-Tuy-Hoà

85) Nguyễn-Tấn-Hoành

86) Nguyễn-Ngọc-Hoan

87) Dương-Thanh-Hoàng

88) Nguyễn-Đình-Hoàng

89) Phạm-Công-Hoàng

90) Trần-Kim-Hoàng

91) Huỳnh-Học

92) Tô-Phước-Hồng

93) Nguyễn-Văn-Huấn

94) Lưu-An-Huê

95) Nguyễn-Văn-Huệ

96) Cai-Thế-Hùng

97) Cao-Thế-Hùng

98) Lâm-Quốc-Hùng

99) Nguyễn-Hùng

100) Nguyễn-Thế-Hùng

101) Nguyễn-Xuân-Hùng

102) Ngô-Viết-Hùng

103) Hà-Mạnh-Hùng

104) Nguyễn-Văn-Hùng

105) Phạm-Văn-Hùng

106) Phạm-Viết-Hùng

107) Lưu-Đức-Huyến

108) Trần-Ken

109) Lê-Công-Khai

110) Đặng-Ngọc-Khảm

111) Huỳnh-Kim-Khanh

112) Hoàng-Ngọc-Khang

113) Hứa-Tư-Khanh     

114) Lê-Quang-Khanh

115) Nguyễn-Phúc-Khanh

116) Lư-Thế-Khiêm

117) Đặng-Vũ-Khoan

118) Nguyễn-Đăng-Khúc

119) Huỳnh-Hữu-Khương

120) Lê-Văn-Lai

121) Nguyễn-Văn-Nhất-Lãng

122) Phan-Tử-Lập

123) Huỳnh-Hữu-Lành

124) Nguyễn-Hoàng-Liêm

125) Trần-Văn-Lập      

126) Lê-Văn-Lộc

127) Nguyễn-Văn-Loan

128) Nguyễn-Bá-Lộc

129) Nguyễn-Lộc

130) Nguyễn-Văn-Lộc

131) Trương-Minh-Lộc

132) Nguyễn-Văn-Long

133) Lê-Văn-Long

134) Phan-Ngọc-Long

135) Nguyễn-Phước-Long

136) Trần-Văn-Lung    

137) Ngô-Văn-Long     

138) Hà-Văn-Lượm

139) Ngô-Ngọc-Luật

140) Phạm-Đăng-Lương

141) Lê-Trọng-Lực

142) Phan-Văn-Minh

143) Đoàn-Hữu-Lượng

144) Nguyễn-Văn-Mười

145) Vũ-Hữu-Lý

146) Ngô-Hạnh-Nam

147) Sâm-Hồng-Minh

148) Nguyễn-Văn-Nam

149) Lương-Quang-Mỹ

150) Lương-Văn-Năng

151) Nguyễn-Hữu-Nam

152) Nguyễn-Văn-Nhẩn

153) Trần-Văn-Nam     

154) Mai-Nho

155) Nguyễn-Kỳ-Tuấn-Ngọc

156) Đinh-Minh-Nhuận

157) Ngô-Bá-Nhẩn       

159) Lưu-Văn-Nở

159) Nguyễn-Văn-Như

160) Mai-Ngọc-Oanh

161) Ngô-Xuân-Ninh

162) Vương-Thế-Phiệt

163) Nguyễn-Đình-Noa

164) Huỳnh-Phú

165) Nguyễn-Duy-Phiên

166) Võ-Công-Phúc

167) Dương-Xuân-Phong          

168) Mai-Kim-Phụng

169) Đỗ-Văn-Phú

170) Nguyễn-Công-Phương

171) Lê-Phụng

172) Lưu-Ngọc-Quang

173) Trần-Đông-Phước

174) Nguyễn-Chí-Quốc

175) Huỳnh-Minh-Quang          

176) Nguyễn-Văn-Quý

177) Nguyễn-Minh-Quan

178) Nguyễn-Văn-Sáng

179) Trương-Đình-Quí  

180) Huỳnh-Ngọc-Sơn

181) Đặng-Ngọc-Quỳnh

182) Đoàn-Viết-Sơn

183) Võ-Uyên-Sao

184) Đỗ-Văn-Sứ

185) Phan-Xuân-Sơn

186) Huỳnh-Văn-Tài

187) Nguyễn-Văn-Sơn

188) Bùi-Văn-Tâm

189) Vũ-Văn-Sức

190) Nguyễn-Chánh-Tâm

191) Lê-Văn-Tài

192) Nguyễn-Hùng-Tâm

193) Đàm-Thanh-Tâm

194)Trịnh Duy Tân ( nhật tu)

195) Nguyễn-Văn-Tâm

196 Nguyễn-Đình-Tha

197) Lê-Đắc-Tân

198) Đinh-Đức-Thắng

199) Tôn-Thất-Thái      

200) Cung-Vĩnh-Thành

201) Nguyễn-Văn-Thắng

202) Dương-Văn-Thành

203) Đặng-Công-Thành

204) Lê-Văn-Thảnh

205) Lê-Văn-Thạnh

206) Trần-Xuân-Thảo

207) Nguyễn-Đức-Thảo

208) Đỗ-Quang-Tiếng

209) Đinh-Phú-Thịnh

210) Nguyễn-Trọng-Thành

211) Nguyễn-Lập-Thành           

212) Dương-Quang-Thời

213) Tôn-Long-Thạnh

214)Trịnh Văn Thơ

215) Nguyễn-Đình-Thống         

216) Nguyễn-Trung-Thành

217) Phạm-Văn-Thì      

218) Nguyễn-Hữu-Thiện

219) Vũ-Đức-Thiều

220) Nguyễn-Văn-Thước

221) Lê-Văn-Thụy       

222) Phạm-Ngọc-Tiến

223) Nguyễn-Đình-Tiến

224) Trần-Duy-Tín

225) Kha-Tử-Tiếp

226) Nguyễn-Kế-Toàn

227) Nguyễn-Quang-Toàn        

228) Nhan-Thanh-Toàn

229) Đỗ-Thế-Trác        

230) Nguyễn-Thế-Trạch

231) Đoàn-Hữu-Trí      

232) Nguyễn-Minh-Trí

233) Trần-Đình-Triết

234) Lê-Văn-Trừ

235) Lê-Quang-Trinh

236) Vũ-Huy-Tự

237) Ngô-Nguyên-Trực

238) Bùi-Lục-Tùng

239) Lữ-Anh-Tuấn

240) Bùi-Trịnh-Tường

241) Dương-Thiệu-Tùng

242) Võ-Văn-Vân

243) Đặng-Tuyên

244) Đỗ-Thanh-Vẽ

245) Nguyễn-Văn-Vang

246) Đỗ-Ngọc-Viêm

247) Đỗ-Duy-Vy

248) Hồ-Ái-Việt

249) Vĩnh-Viễn

250) Ngô-Văn-Vũ

251) Trần-Việt

255) Hồ-Văn-Xách

253) Phạm-Nghiã-Vụ

254) Bạch-Xuân

255) Nguyễn-Văn-Xê

256) Nguyễn-Văn-Xuân

257) Nguyễn-Phùng-Xuân         

258)  Trần-Xuân

259)  Châu-Phút-Yên

260) Nguyễn-Văn-Yên

Danh-Sách Khoá 21 : ( Đệ Nhị Nhân Mã)   Đã tu chinh hoàn tất 03-30-207

1) Nguyễn-Ngọc-A      

2) Trịnh- A

3) Đào-Vĩnh-An

4) Trần-Trọng-An

5) Tôn-Thất-Án

6) Nguyễn-Hoàng-Anh

7) Trần-Anh     

8) Võ-Văn-Ánh

9) Võ-Triệu-Ba

10) Phan-Văn-Bắc

11) Đặng-Duy-Bảo

12) Lê-Đăng-Bảo

13) Nguyễn-Văn-Báu

14) Lê-Văn-Be

15) Nguyễn-Hoàng-Be

16) Trần-Đăng-Bé

17) Trang-Văn-Bé

18) Phú-Hòa-Ben

19) Trần-Văn-Bình

20) Bùi-Văn-Bửu

21) Nguyễn-Văn-Cách

22) Đỗ-Hữu-Cảnh

23) Phan-Văn-Cát

24) Võ-Chờm   

25) Lê-Tất-Chánh

26) Nguyễn-Văn-Châu

27) Võ-Khắc-Chiếm     

28) Phạm-Hùng-Chiến

29) Nguyễn-Ngọc-Chiếu

30) Trần-Ngọc-Chiểu

31) Nguyễn-Xuân-Chinh

32) Đỗ-Văn-Chương

33) Huỳnh-Châu-Công

34) Hoàng-Trọng-Cường

35) Mai-Tứ-Cường

36) Nguyễn-Thiết-Cường

37) Trần-Mạnh-Cường

38) Hồ-Công-Cung

39) Nguyễn-Văn-Dân

40) Nguyễn-Diệt

41) Huỳnh-Xuân-Dinh

42) Tôn-Thất-Dũng

43) Nguyễn-Văn-Dũng

44) Đặng-Văn Dư

45) Huỳnh-Văn-Dự

46) Nguyễn-Duy

47) Nguyễn-Ngọc-Dzao

48) Phạm-Tấn-Đạt

49) Hà-Ngọc-Đễ

50) Lê-Ngọc-Đệ

51) Nguyễn-Quang-Điệp

52) Lâm-Văn-Do

53) Võ-Văn-Đoàn

54) Đỗ-Đoan

55) Phạm-Văn-Đốc

56) Phạm-Anh-Dõng

57) Phạm-Văn-Đức      

58) Phạm-Đình-Đức

59) Nguyễn-Được

60) Nguyễn-Văn-Đượm

61) Nguyễn-Trung-Gấu

62) Đặng-Văn-Giắn

63) Phạm-Văn-Giai      

64) Nguyễn-Tấn-Hà

65) Võ-Văn-Hà

66) Nguyễn-Thanh-Hải

67) Phan-Ngọc-Hân

68) Nguyễn-Hữu-Hạnh

69) Nguyễn-Hạnh

70) Lê-Nguyên-Hảo

71) Huỳnh-Trung-Hiếu

72) Dương-Đức-Hiền

73) Nguyễn-Văn-Hiền

74) Hồ-Văn-Hòa

75) Huỳnh-Cộng-Hòa

76) Võ-Hoà

77) Huỳnh-Hùng-Hoàng

78) Phạm-Thúc-Hoàng

79) Trần-Văn-Hoàng

80) Nguyễn-Văn-Hoành

81) Nguyễn-Hoạt

82) Lê-Công-Hội

83) Nguyễn-Quý-Hợi

84) Nguyễn-Trí-Hồng ( K 19 )

85) Nguyễn-Hồng

86) Phó-Phước-Hồng

87) Thái-Văn-Hồng      

88) Trần-Thanh-Hồng

89) Bùi-Quốc-Hưng      

90) Nguyễn-Văn-Hừng

91) Trịnh-Đình-Hưng     

92) Đỗ-Mạnh-Hùng

93) Ngô-Thanh-Hùng

94) Nguyễn-Hoài-Hùng

95) Phạm-Công-Hùng

96) Trần-Việt-Hùng

97) Cao-Bích-Quốc-Huy

98) Ngô-Hương

99) Lâm-Hưng

100) Đặng-Tiến-Hưng

101) Nguyễn-Sỉ-Hy

102) Lê-Văn-Khá

103) Phạm-Văn-Khanh

104) Huỳnh-Tấn-Khen

105) Lâm-Thanh-Khiết

106) Phạm-Khắc-Khiêm

107) Lê-Văn-Khoái      

108) Vương-Văn-Khôi

109) Lâm-Tấn-Khương

110) Vương-Anh-Kiệt

111) Đinh-Văn-Kính     

112) Nguyễn-Văn-Kỉnh

113) Nguyễn-Anh-Kỳ

114) Lý-Thuần-Kỳ

115) Phạm-Đức-Lai

116) Võ-Văn-Lâm

117) Lương-Nguyên-Lân

118) Phan-Văn-Lân

119) Nguyễn-Kỷ-Lăng

120) Nguyễn-Văn-Lập

121) Đoàn-Văn-Lập     

122) Lê-Văn-Liêm

123) Lê-Văn-Liễu

124) Dương-Thanh-Long

125) Nguyễn-Bùi-Thăng-Long

126) Nguyễn-Đức-Lợi

127) Dương-Ngọc-Lợi

128) Vĩnh-Lợi  

129) Nguyễn-Tiến-Lực

130) Nguyễn-Văn-Lực

131) Hoàng-Ngọc-Lược

132) Trần-Văn-Lựu

133) Võ-Văn-Lưu

134) Nguyễn-Văn-Lý

135) Nguyễn-Đức-Lý

136) Nguyễn-Tuấn-Mãnh

137) Lê-Văn-Minh

138) Lê-Văn-Minh

139) Nguyễn-Hữu-Minh

140) Trần-Quang-Minh

141) Nguyễn-Ngọc-Mục

142) Nguyễn-Văn-Mong

143) Lưu-Văn-Mười

144) Nguyễn-Kim-Hoàn-Mỹ

145) Vũ-Ngô-Mỹ

146) Trần-Văn-Năm

147) Vĩnh-Đại-Nam      

148) Đỗ-Cao-Năm

149) Nguyễn-Văn-Năm

150) Đoàn-Cảnh-Nga

151) Ngô-Quang-Nghi

152) Nguyễn-Thành-Nghĩa

153) Phạm-Văn-Ngó

154) Trần-Kim-Ngọc

155) Nguyễn-Văn-Nguyên

156) Huỳnh-Văn-Trung-Nguyên

157) Lê-Thành-Nhân

158) Đỗ-Ngọc-Nhẫn

159) Thiệu-Đăng-Nhớ

160) Hồ-Văn-Nhỏ

161) Phù-Nỉ

162) Lê-Văn-Nước

163) Lê-Đức-Phán

164) Huỳnh-Văn-Phát

165) Lư-Khả-Phát

166) Võ-Thành-Phố

167) Lê-Văn-Phú

168) Lê-Kiều-Phú

169) Đặng-Đình-Phú

170) Đặng-Hữu-Phước

171) Nguyễn-Văn-Phước

172) Nguyễn-Văn-Phước

173) Trần-Dụng-Phước

174) Lê-Đăng-Phương

175) Trần-Đằng-Phương

176) Nguyễn-Túy-Phương

177) Nguyễn-Minh-Quân

178) Văn-Công-Quân

179) Trần-Văn-Quang

180) Tạ-Quảng

181) Đặng-Qui

182) Nguyễn-Viết-Quí

183) Huỳnh-Phú-Quốc

184) Nguyễn-Quốc

185) Nguyễn-Đình-Quí

186) Phạm-Ngọc-Quỳnh

187) Lê-Văn-Sang        

188) Nguyễn-Văn-Sang

189) Nguyễn-Ngọc-Sang

190) Nguyễn-Văn-Sáng

191) Huỳnh-Sanh

192) Đinh-Sáo

193) Nguyễn-Siềng       

194) Nguyễn-Văn-Sinh

195) Cao-Hữu-Síu

196) Bùi-Sơn

197) Đặng-Mậu-Sơn

198) Dương-Kim-Sơn

199) Huỳnh-Ngọc-Sơn

200) Lê-Hoành-Sơn

201) Nguyễn-Thanh-Sơn

202) Văn-Công-Lam-Sơn

203) Võ-Cao-Sơn

204) Trần-Bá-Sữu

205) Tôn-Hữu-Tài

206) Võ-Tài

207) Nguyễn-Minh Tâm

208) Nguyễn-Minh-Tâm

209) Phạm-Minh-Tâm

210) Ngô-Văn-Tấn

211) Võ-Tánh

212) Trần-Văn-Tập

213) Huỳnh-Văn-Thạch

214) Cao-Trọng-Thẩm

215) Nguyễn-Hữu-Thắng

216) Huỳnh-Văn-Thắng

217) Võ-Văn-Thắng

218) Hoàng-Công-Thành

219) Kim-Ngọc-Thành

220) Ngô-Chí-Thành

221) Nguyễn-Công-Thành

222) Lai-Vĩnh-Thạnh

223) Phan-Chí-Thiện

224) Nguyễn-Văn-Thiệu

225) Trần-Văn-Thiên

226) Lê-Tấn-Thinh

237) Lê-Tường-Thọ

228) Nguyễn-Lộc-Thọ

229) Châu-Văn-Thông

230) Huỳnh-Văn-Thông

231) Nguyễn-Văn-Thu

232) Trần-Trọng-Thu

233) Hoàng-Xuân-Thủy

234) Lâm-Quang-Tiếng

235) Trương-Quang-Tiệp

236) Phạm-Văn-Tố

237) Huỳnh-Phương-Toàn

238) Trần-Văn-Tồn

239) Trần-Bá-Tòng      

240) Nguyễn-Trân

241) Nguyễn-Văn-Trào

242) Đoàn-Hữu-Trí

243) Huỳnh-Minh-Trí

244) Phan-Quốc-Trinh

245) Nguyễn-Đình-Trúc

246) Trần-Anh-Tuấn

247) Hoàng-Trọng-Tuấn

248) Nguyễn-Hữu-Tuấn

249) Trần-Văn-Tuấn

250) Trần-Thanh-Tuyền

251) Lê-Văn-Tư

252) Lý-Tỷ

253) Ngô-Đình-Tỵ

254) Võ-Văn-Tý

255) Huỳnh-Bá-Vạn     

256) Lương-Văn-Vân

257) Nguyễn-Thanh-Vân

258) Nguyễn-Tấn-Vẹn

259) Bùi-Khắc-Vi

260) Lê-Mạnh-Việt

261) Nguyễn-Cường-Việt

262) Nguyễn-Văn-Việt

263) Trần-Văn-Việt

264) Nguyễn-Thế-Vinh

265) Lê-Quang-Thu-Võ

266) Nguyễn-Xao

267) Trịnh-Xí

268) Huỳnh-Ngọc-Xướng

269) Văn-Yn

Danh-Sách Khoá 22 : ( Đệ Nhị Nam Dương)

1) Bùi-Văn-Ái

2) Phạm-Hồng-Ân

3) Trương-Công-Ân     

4) Vương-Đình-Ánh

5) Hồ-Ngọc-Bá

6) Đinh-Kim-Bản

7) Vũ-Văn-Bạn

8) Vũ-Đình-Bân

9) Trịnh-Văn-Bé

10) Nguyễn-Văn-Bé     

11) Trần-Ngọc-Bích

12) Nguyễn-Hoàng-Bích

13) Trần-Văn-Bính

14) Lê-Quang-Bình      

15) Tạ-Thái-Bình

16) Nguyễn-Quang-Bình

17) Phạm-Thanh-Bình

18) Nguyễn-Văn-Bờ     

19) Trần-Văn-Bổn

20) Lý-Văn-Bổn

21) Đinh-Tấn-Bửu

22) Nguyễn-Ngọc-Cẩn

23) Huỳnh-Trung-Chánh

24) Đinh-Văn-Chánh

25) Hồ-Quang-Chánh

26) Nguyễn-Văn-Châu

27) Võ-Minh-Châu

28) Bùi-Chim   

29) Trương-Văn-Chỉ     

30) Trà-Văn-Có

31) Nguyễn-Chí-Công

32) Nguyễn-Quang-Công          

33) Nguyễn-Thành-Chung

34) Vũ-Thế-Chương     

35) Vũ-Đức-Cương

36) Phạm-Đức-Cường

37) Thái-Văn-Danh      

38) Nguyễn-Ngọc-Dân

39) Bùi-Văn-Dân

40) Ngô-Quang-Diệu

41) Phạm-Ngọc-Diệp

42) Nguyễn-Đình-Dũng

43) Đỗ-Trí-Dũng          

44) Từ-Trí-Dũng

45) Lý-Dũng    

46) Nguyễn-Kim-Đạo ( K.18 )

47) Nguyễn-Mạnh-Đạt

48) Nguyễn-Văn-Đình

49) Bạch-Minh-Đoàn

50) Lê-Văn-Đơ

51) Tạ-Trung-Đoàn

52) Phạm-Tấn-Đức

53) Phan-Tấn-Đức       

54) Nguyễn-Trung-Đức

55) Nguyễn-Gan

56) Nguyễn-Thương-Gia

57) Trần-Tiến-Gián

58) Lý-Văn-Giáo

59) Đặng-Hai

60) Bùi-Trần-Hải

61) Châu-Văn-Hai

62) Phạm-Sơn-Hải

63) Hoàng-Thế-Hải

64) Đặng-Hoàng-Hạnh

65) Lai-Văn-Hảo

66) Nguyễn-Văn-Hàu

67) Đào-Quốc-Hiển      

68) Tống-Phước-Hoà

69) Lê-Minh-Hiền

70) Nguyễn-Trọng-Hiền

71) Trần-Kiều-Hiền

72) Trần-Minh-Hiền     

73) Phan-Tấn-Hiệp

74) Bùi-Văn-Hiệp

75) Nguyễn-Hữu-Hiệp

76) Trần-Văn-Hiệp

77) Trần-Chí-Hiếu

78) Nguyễn-Văn-Hiếu

79) Nguyễn-Trung-Hiếu

80) Hồ-Đinh-Hoát        

81) Nguyễn-Hòa

82) Dương-Học

83) Lâm-Văn-Hoàng

84) Huỳnh-Văn-Hoàng

85) Phạm-Trọng-Hoàng

86) Nguyễn-Văn-Hoàng

87) Tạ-Hội       

88) Trần-Văn-Hơn

89) Đỗ-Văn-Huấn        

90) Nguyễn-Huệ

91) Đặng-Văn-Huệ

92) Nguyễn-Trọng-Hùng

93) Lê-Thạch-Hùng

94) Lâm-Quang-Hùng

95) Phạm-Viết-Hùng

96) Đỗ-Phi-Hùng          

97) Nguyễn-Gia-Hưng

98) Đoàn-Văn-Huy

99) Nguyễn-Minh-Khai

100) Trần-Văn-Khai

101) Nguyễn-Tấn-Khải

102) Châu-Văn-Khảm

103) Lê-Đăng-Khoa     

104) Lê-Bách-Khoa

105) Lê-Văn-Khiêm

106) Trần-Hoàng-Kiếm

107) Tôn-Thất-Quỳnh-Kiểm

108) Nguyễn-Súy-Lãm

109) Nguyễn-Lâm

110) Nguyễn-Lâm

111) Lê-Thanh-Lãng    

112) Nguyễn-Mậu-Lâng

113) Phan-Như-Lê       

114) Đổ-Văn-Liêm       

115) Vũ-Thanh-Liêm

116) Hồ-Thanh-Liêm

117) Nguyễn-Quang-Lùng        

118) Phan-Đình-Lương

119) Nguyễn-Thành-Lý

120) Trương-Nhào-Mạ

121) Đào-Văn-Mạnh

122) Phan-Ngọc-Mạo

123) Đoàn-Văn-Minh

124) Bùi-Văn-Minh      

125) Trần-Trịnh-Minh

126) Ngô-Văn-Minh     

127) Tống-Anh-Minh

128) Phan-Công-Minh

129) Nguyễn-Thái-Minh

130) Lương-Minh-Mới

131) Huỳnh-Viết-Nam

132) Hồ-Văn-Năm       

133) Trần-Văn-Nên      

134) Đinh-Viết-Nhân

135) Cao-Nhang

136) Nguyễn-Văn-Ngọc           

137) Nguyễn-Kim-Ngọc

138) Trần-Văn-Ngọc

139) Châu-Hữu-Nhơn

140) Lý-Văn-Nghiã

141) Nguyễn-Văn-Nho

142) Nguyễn-Văn-Ngoạn

143) Nguyễn-Thành-Nhơn        

144) Võ-Như-Nhu

145) Lê-Văn-Nghiệp    

146) Nguyễn-Văn-Ngọt

147) Giáp-Chí-Nghiã

148) Phùng-Hữu-Nghiã

149) Trương-Văn-Nghiêm        

150) Bùi-Thế-Nguyên

151) Trần-Văn-Ở

152) Nguyễn-Hữu-Phan

153) Mai-Phát

154) Nguyễn-Văn-Phấn

155) Lương-Văn-Phổ

156) Lê-Đình-Phồn       

157) Nguyễn-Phong      

158) Vũ-Duy-Phúc

159) Trương-Đình-Phúc

160) Nguyễn-Văn-Phước

161) Phạm-Hữu-Phước

162) Nguyễn-Hữu-Phương

163) Trần-Công-Quang

164) Nguyễn-Xuân-Quang

165) Võ-Bằng-Quang

166) Phạm-Ngọc-Quất 

167) Võ-Minh-Quân

168) Lê-Phước-Quyền

169) Phạm-Nguyễn-Cẩm-Sa

170) Thái-Văn-Sáng

171) Cao-Văn-Sáu

172) Đặng-Văn-Sâm

173) Đỗ-Văn-Sâm        

174) Nguyễn-Ngọc-Sơn

175) Huỳnh-Thạch-Sơn

176) Đỗ-Thành-Sơn      

177) Hồng-Sự

178) Huỳnh-Công-Tánh

179) Lê-Công-Tấn

180) Phan-Thiên-Tạo

181) Nguyễn-Tao

182) Nguyễn-Trung-Tâm

183) Đặng-Thành-Tâm

184) Đỗ-Thành-Tâm

185) Lê-Thành-Tấn      

186) Nguyễn-Phước-Tấn

187) Trần-Tấn

188) Nguyễn-Thành-Tấn

189) Phạm-Duy-Tân

190) Nguyễn-Ngọc-Thạch

191) Nguyễn-Ngọc-Thạch

192) Hồ-Thám

193) Đồng-Thắng         

194) Huỳnh-Kim-Thanh

195) Phan-Văn-Thanh

196) Nguyễn-Thanh

197) Lê-Thành

198) Nguyễn-Hữu-Thành          

199) Nguyễn-Văn-Thành

200) Ngô-Văn-Thắng

201) Đỗ-Văn-Thắng     

202) Hứa-Chiến-Thắng

203) Võ-Đại-Thắng

204) Phạm-Phương-Thảo

205) Trần-Văn-Thế

206) Nguyễn-Hữu-Thiện           

207) Nguyễn-Văn-Thiệu

208) Lê-Bá-Thoại

209) Nguyễn-Văn-Thông

210) Nguyễn-Trung-Thu           

211) Trần-Duy-Thủy

212) Đỗ-Thế-Thường

213) Đỗ-Như-Thúc

214) Phùng-Văn-Tiến   

215) Đỗ-Kim-Tính        

216) Hà-Hớn-Tinh

217) Nguyễn-Văn-Toàn

218) Nguyễn-Hữu-Tòng

219) Mai-Văn-Tra

220) Nguyễn-Đình-Trang          

221) Huỳnh-Ngọc-Trang

222) Hoàng-Thông-Trí

223) Nguyễn-Văn-Trọng

224) Nguyễn-Đăng-Trơn

225) Phan-Thành-Trung

226) Trần-Văn-Trung

227) Nguyễn-Truyền

228) Liểu-Thiên-Trường

229) Vĩnh-Tu

230) Trà-Văn-Tú

231) Nguyễn-Văn-Tuấn

232) Nguyễn-Anh-Tuấn

233) Lê-Đức-Tuấn

234) Nguyễn-Văn-Tuệ

235) Đỗ-Đình-Túy        

236) Võ-Tư

237) Lê-Văn-Tường

238) Trần-Tưởng

239) Nguyễn-Văn-Ty

240) Lê-Văn-Út           

241) Nguyễn-Văn-Vàng           

242) Trần-Thanh-Vân

243) Nguyễn-Đắc-Vinh

244) Nguyễn-Đình-Vĩnh

245) Trình-Tấn-Viễn

246) Nguyễn-Văn-Vy

247) Đặng-Văn-Xê       

248) Trần-Quang-Xuân

Danh-Sách Khoá 23 : ( Đệ Nhị Bão Bình)

1) Huỳnh-Văn-Ái

2) Mai-Văn-An

3) Trần-Văn-An

4) Phùng-Kim-Anh

5) Lưu-Tuấn-Anh

6) Đào-Duy-Ánh

7) Nguyễn-Quang-Ánh

8) Trịnh-Thành Ấn       

9) Trần-Văn-Ba

10) Trần-Ngọc-Bảo

11) Nguyễn-Quốc-Báo

12) Hoàng-Kim-Bắc     

13) Nguyễn-Binh

14) Phạm-Hữu-Bình     

15) Trần-Thái-Bình

16) Huỳnh-Ngọc-Bửu

17) Võ-Văn-Ca

18) Nguyễn-Ngọc-Cận

19) Đinh-Hoàng-Cảnh

20) Chu-Thiện-Cầu       

21) Nguyễn-Văn-Chánh

22) Nguyên-Văn-Châu

23) Nguyễn-Đức-Châu

24) Nguyễn-Bá-Chiến

25) Huỳnh-Văn-Chiên

26) Nguyễn-Văn-Chính

27) Lê-Phước-Chỉnh

28) Nguyễn-Văn-Chủ

29) Nguyễn-Công-Chức

30) Trần-Văn-Chuyển

31) Thái-Kiếm-Cơ        

32) Lê-Thành-Công      

33) Nguyễn-Đình-Cư

34) Nguyễn-Văn-Cư     

35) Châu-Phúc-Chương

36) Trần-Mạnh-Cường

37) Trương-Văn-Dần

38) Phan-Thành-Danh

39) Trần-Duệ   

40) Phạm-Văn-Đài

41) Đào-Trọng-Đạt      

42) Lê-Phát-Đạt

43) Nguyễn-Quang-Đăng          

44) Nguyễn-Thanh-Đằng

45) Vũ-Lê-Điển           

46) Lý-Hữu-Điền

47) Lương-Văn-Đính    

48) Lê-Minh-Đoàn

49) Trần-Ngọc-Điệp

50) Nguyễn-Văn-Đôn

51) Nguyễn-Văn-Đông

52) Trần-Văn-Đông      

53) Lê-Kiến-Đức

54) Trần-Hữu-Đức

55) Trần-Chí-Đức

56) Lê-Vĩnh-Đức

57) Nguyễn-Văn-Được

58) Nguyễn-Hữu-Em

59) Trương-Bửu-Giám

60) Nguyễn-Văn-Giàu

61) Nguyễn-Giỏi

62) Hoàng-Minh-Giao

63) Lâm-Cự-Giảng       

64) Dương-Văn-Gõ      

65) Trương-Diên-Hà

66) Trần-Văn-Hai        

67) Diệp-Năng-Hải

68) Lê-Hải

69) Nguyễn-Thanh-Hải

70) Trương-Diên-Hải

71) Trương-Minh-Hải

72) Nguyễn-Hữu-Hạnh

73) Lê-Hiếu-Hạnh

74) Lê-Xuân-Hảo

75) Nguyễn-Hữu-Hảo

76) Liễu-Văn-Hỉ

77) Lương-Văn-Hiền    

78) Nguyễn-Quang-Hiển

79) Lê-Quang-Hiển      

80) Phạm-Hiền

81) Trần-Khác-Hiểu     

82) Châu-Đức-Hiếu      

83) Lê-Minh-Hiếu        

84) Trần-Quốc-Hiệp

85) Phan-Trọng-Hiệp

86) Trương-Tiến-Hổ     

87) Nguyễn-Hoà

88) Lê-Xuân-Hoài

89) Trần-Trọng-Hoàng

90) Trương-Văn-Hoàng

91) Phạm-Hoàng

92) Võ-Mai-Hoàng

93) Trần-Minh-Hoàng

94) Nguyễn-Văn-Hòi

95) Trịnh-Hoè

96) Nguyễn-Hòi

97) Trần-Ngọc-Hồng

98) Nguyễn-Đình-Hợp

99) Tôn-Văn-Huệ

100) Ngô-Việt-Hùng     

101) Nguyễn-Thế-Hùng

102) Trương-Vĩnh-Hùng

103) Nguyễn-Phi-Hùng

104) Nguyễn-Việt-Hùng

105) Nguyễn-Văn-Huyến

106) Hồ-Tấn-Hưng       

107) Nguyễn-Văn-Hu

108) Phan-Thế-Hữu     

109) Trần-Quang-Hy

110) Đinh-Đức-Kha     

111) Tạ-Đình-Khang

112) Trần-Quốc-Khánh

113) Trần-Quốc-Khanh

114) Nguyễn-Hữu-Khôi

115) Phạm-Văn-Khuông

116) Nguyễn-Đình-Khuyến

117) Võ-Anh-Kiệt

118) Nguyễn-Văn-Kỳ

119) Nguyễn-Văn-Kỹ

120) Ngô-Lâm

121) Trương-Văn-Lâm

122) Nguyễn-Hữu-Lãng

123) Nguyễn-Tấn-Lập

124) Ngô-Đình-Lệnh

125) Võ-Văn-Lèo

126) Trần-Văn-Liêm    

127) Nguyễn-Văn-Liệu

128) Nguyễn-Đức-Linh

129) Trần-Kế-Lộc        

130) Nguyễn-Thiện-Lộc

131) Nguyễn-Vĩnh-Lộc

132) Tôn-Thất-Lợi

133) Đặng-Khánh-Long

134) Vũ-Long  

135) Huỳnh-Ngọc-Luân

136) Phạm-Phước-Lương

137) Trần-Văn-Lượng

138) Đồng-Văn-Lý

139) Võ-Văn-Lý

140) Phạm-Văn-Mai     

141) Nguyễn-Công-Minh

142) Nguyễn-Hoàng-Minh        

143) Nguyễn-Trung-Minh         

144) Lai-Đăng-Minh     

145) Trần-Cao-Minh

146) Trần-Ngọc-Minh

147) Nguyễn-Thanh-Minh         

148) Đặng-Hắng-Minh

149) Mạnh-Văn-Mười

150) Lê-Mỹ     

151) Võ-Văn-Mỹ         

152) Cao-Thành-Năm

153) Trần-Văn Năm     

154) Lý-Văn-Năm

155) Phan-Văn-Năm

156) Nguyễn-Nhân       

157) Trần-Thanh-Nghị

158) Nguyễn-Ngọc-Nghị           

159) Nguyễn-Văn-Nghỉ

160) Hồ-Hữu-Nghiã

161) Nguyễn-Văn-Nghiã           

162) Võ-Hiếu-Nghiã     

163) Trịnh-Xuân-Ngọc

164) Lê-Văn-Nhơn       

165) Nguyễn-Hoàng-Nguyên

166) Võ-Như-Nguyên

167) Trương-Nguyện

168) Trương-Vĩnh-Ninh

169) Đặng-Văn-Nổ      

170) Nguyễn-Nuôi        

171) Vũ-Việt-Phong     

172) Nguyễn-Phong      

173) Nguyễn-Văn-Phong          

174) Lê-Thanh-Phong

175) Hoàng-Phú

176) Nguyễn-Văn-Phúc

177) Trần-Đại-Phúc     

178) Lê-Đình-Phụng     

179) Đặng-Hữu-Phước

180) Huỳnh-Đông-Phước

181) Nguyễn-Văn-Phước

182) Võ-Hữu-Phước    

183) Đỗ-Hữu-Phước                

184) Huỳnh-Đắc-Phước

185) Trần-Kỳ-Phước    

186) Hoàng-Văn-Phương

187) Nguyễn-Đình-Quang         

188) Phan-Quãng         

189) Nguyễn-Văn-Quý

190) Trần-Ngọc-Sáng

191) Huỳnh-Văn-Sáu

192) Nguyễn-Văn-Rớt

193) Lê-Thiện-Sĩ          

194) Nguyễn-Thành-Sơn           

195) Dương-Văn-Sơn

196) Trần-Ngọc-Sơn

197) Huỳnh-Công-Tâm

198) Trần-Minh-Tâm

199) Dương-Văn-Tân

200) Cao-Minh-Tân      

201) Huỳnh-Văn-Tân

202) Nguyễn-Văn-Tân

203) Khưu-Trinh-Thạch

204) Trần-Văn-Thạch

205) Lê-Bá-Thạch        

206) Võ-Duy-Thanh     

207) Trần-Thanh

208) Lê-Công-Thanh

209) Nguyễn-Văn-Thành          

210) Hoàng-Văn-Thành

211) Đặng-Văn-Thành

212) Trịnh-Ngọc-Thành

213) Lê-Ngọc-Thành

214) Trần-Ngọc-Thành

215) Phạm-Thế-Thảnh

216) Hoàng-Minh-Thắng           

217) Lê-Quang-Thắng

218) Nguyễn-Văn-Thắm

219) Nguyễn-Trường-Thế         

220) Trần-Văn-Thi       

221) Khổng-Hữu-Thích

222) Nguyễn-Văn-Thiếu

223) Võ-Văn-Thiện      

224) Nguyễn-Phước-Thiện

225) Cao-Lương-Thiên

226) Nguyễn-Đức-Thịnh

227) Nguyễn-Văn-Thôn

228) Nguyễn-Văn-Thông

229) Vũ-Đức-Thông     

230) Tạ-Quang-Thông

231) Hồ-Minh-Thông

232) Đỗ-Thống

233) Huỳnh-Kim-Thuận

234) Trương-Minh-Thừa

235) Vũ-Văn-Thức

236) Nguyễn-Thương

237) Nguyễn-Văn-Thưởng        

238) Lai-Kiêm-Thủy     

239) Nguyễn-Văn-Thùy

240) Hàn-Thụy-Tiến     

241) Nguyễn-Duy-Tiên

242) Huỳnh-Trung-Tín

243) Trương-Hữu-Tín

244) Trần-Văn-Tính     

245) Trần-Xuân-Tỉnh

246) Lê-Công-Tông

247) Nguyễn-Văn-Tốt  

248) Phan-Văn-Tòng

249) Bùi-Quang-Trãi

250) Nguyễn-Minh-Trang         

251) Lê-Liên-Trì

252) Lâm-Đình-Trị

253) Nguyễn-Minh-Triết

254) Đỗ-Quý-Trọng                  

255) Hoàng-Ngọc-Trung

256) Nguyễn-Duy-Trung           

257) Phan-Văn-Trung   

258) Tô-Quang-Trung

259) Trịnh-Quang-Từ

260) Dương-Đức-Tuấn

261) Nguyễn-Anh-Tuấn

262) Phạm-Văn-Tuấn

263) Bùi-Thông-Tuệ

264) Lê-Bá-Tùy

265) Nguyễn-Cảnh-Tùy

266) Nguyễn-Xuân-Tùng

267) Phạm-Ngọc-Tuyển           

268) Lê-Thành-Tuyến

269) Lê-Thanh-Tuyến

270) Nguyễn-Văn-Tỷ   

271) Hoàng-Văn-Tý     

272) Trần-Cẩm-Vân

273) Trần-Thanh-Vân

274) Trần-Văn-Vân

275) Võ-Như-Văn        

276) Nguyễn-Văn-Viên

277) Lê-Quang-Vinh

278) Trương-Văn-Vinh

279) Huỳnh-Vui

280) Trần-Thế-Vĩnh     

281) Nguyễn-Văn-Xiếu

282) Nguyễn-Văn-Yên

Danh-Sách Khoá 24 : ( Đệ Nhị Song Ngư) ( Còn bổ-túc )

1) Ngô-An

2) Trần-Quang-Anh

3) Trần-Trọng-Ân

4) Phạm-Duy-Ánh

5) Nguyễn-Văn-Ánh     

6) Nguyễn-Hữu-Ba

7) Hồ-Văn-Bạch          

8) Cao-Bá-Bạch

9) Ngô-Gia-Bảo

10) Nguyễn-Văn-Bảo   

11) Tô-Ngọc-Bảo

12) Nguyễn-Gia-Bảo    

13) V-V-Bình   

14) Lê-Gia-Bình           

15) Phạm-Văn-Bình     

16) Trần-Văn-Bình       

17) Nguyễn-Văn-Bôn   

18) Huỳnh-Văn-Bửu     

19) Hồ-Đình-Bửu         

20) N-Cảnh      

21) Nguyễn-Ngọc-Cảnh

22) Trương-Công-Cắt

23) Nguyễn-Hoài-Châu

24) Đặng-Ngọc-Châu

25) Lý-Ngọc-Châu

26) Nguyễn-Cửu-Chi    

27) Đỗ-Hồng-Chi         

28) Nguyễn-Sáng-Chiếu

29) Dương-Văn-Chính

30) Đỗ-Văn-Chút         

31) N-Chuộng

32) Đỗ-Thiện-Chương

33) Nguyễn-Văn-Chương

34) Đ-Chương

35) Liên-Khôi-Chương

36) Hồ-Quý-Chương

37) Lê-Gia-Cương        

38) Nguyễn-Văn-Cửu

39) Trần-Văn-Dân       

40) Vũ-Đình-Dần         

41) Trần-Văn-Diễn       

42) Nguyễn-Văn-Diệp  

43) Đỗ-Anh-Dũng

44) Phạm-Hùng-Dũng

45) Vũ-Dũng

46) Trịnh-Thái-Dương

47) Lưu-Đình-Đài         

48) Lê-Văn-Đại           

49) Trương-Thanh-Đạm           

50) Phạm-Hữu-Đản      

51) Vương-Khắc-Đạt   

52) Nguyễn-Văn-Đèn

53) Đoàn-Ngọc-Định

54) Nguyễn-Đức-Định

55) Phạm-Ngọc-Điền

56) Nguyễn-Văn-Đức

57) Đặng-Quang-Đức   

58) Dương-Minh-Đức   

59) Đỗ-Tấn-Đức

60) Trần-Hữu-Đức

61) Võ-Ngọc-Đương

62) Hoàng-Em

63) Bùi-Kế-Giản

64) Phạm-Văn-Giới      

65) Đoàn-Hồng-Hải

66) Lư-Ngọc-Hải

67) Vũ-Duy-Hiền

68) Vũ-Đình-Hiền        

69) Lê-Văn-Hiệp          

70) Lê-Lộc-Hiệp          

71) Lâm-Hữu-Hiệp

72) Lâm-Phi-Hổ

73) Dư-Văn-Hổ

74) Võ-Văn-Hoa

75) Phạm-Đình-Học

76) Nguyễn-Văn-Hoà

77) Nguyễn-Hiếu-Hoà  

78) Vũ-Thúc-Hoàn       

79) Hoàng-Đức-Hoang 

80) Đặng-Phi-Hoàng

81) Nguyễn-Minh-Hoàng

82) Nguyễn-Huy-Hoàng

83) Nguyễn-Hoành

84) Trần-Trung-Hoạt

85) Nguyễn-Thanh-Hồng          

86) Nguyễn-Khắc-Hồng

87) N V-Hơn               

88) Vũ-Đình-Huân

89) Lương-Văn-Huấn               

90) Đỗ-Thanh-Huấn

91) Phan-Thế-Hùng

92) Uông-Đình-Hùng    

93) Nguyễn-Xuân-Hùng

94) Đỗ-Phi-Hùng

95) Cao-Quang-Huy

96) Trần-Xuân-Hưng    

97) Nguyễn-Tấn-Hưng

98) Lê-Quang-Hưng

99) Nguyễn-Văn-Hưởng

100) Hoàng-Văn-Hựu

101) Trần-Thiện-Khải

102) Đinh-Văn-Khang

103) Phùng-Quang-Khanh

104) Bùi-Tấn-Khanh

105) Tạ-Xuân-Khoa

106) Nguyễn-Khương

107) Trần-Khắc-Kiêm

108) Phạm-Văn-Là      

109) Lê-Như-Lai

110) Nguyễn-Lan

111) Trần-Kim-Lan

112) Nguyễn-Văn-Lang

113) Trần-Văn-Lân      

114) Hồ-Văn-Lập

115) Võ-Văn-Long

116) Nguyễn-Hữu-Long

117) Lê-Mỹ-Long

118) Nguyễn-Văn-Lòng

119) Nguyễn-Văn-Lộc

120) Huỳnh-Đắc-Lộc

121) Huỳnh-Trọng-Lộc

122) N T-Lộc   

123) Nguyễn-Gia-Luân

124) Trần-Ngọc-Luyến

125) Trần-Văn-Lương

126) Lê-Văn-Lưỡng

127) Phạm-Văn-Mãi

128) Lê-Văn-Mạnh

129) Phan-Công-Minh

130) Trương-Ngọc-Minh

131) Nguyễn-Thanh-Minh

132) Hồ-Phước-Minh

133) N M-My  

134) Lương-Văn-Mỹ

135) Nguyễn-Ngọc-Mỹ

136) Phan-Văn-Ngà

137) Lê-Văn-Ngọc

138) Nguyễn-Văn-Ngọc

139) Nguyễn-Thiện-Nghệ

140) Đặng-Viết-Nghị

141) Phạm-Văn-Nghiã

142) P T-Nghiã

143) Trần-Trọng-Nghiã

!44) Đặng-Đình-Nghiã

145) Đ-Nghiã

146) Nguyễn-Tấn-Nghiệp

147) Trần-Văn-Ngô

148) Nguyễn-Hoa-Nguyên

149) Lê-Khắc-Nguyên

150) T T-Nguyên

151) Nguyễn-Thanh-Nhã

152) Trần-Văn-Nhơn

153) Trần-Văn-Nhơn

154) Nguyễn-Văn-Nở

155) Nguyễn-Công-Oanh          

156) Nguyễn-Ngọc-Oanh

157) Huỳnh-Tấn-Phát

158) N T-Phát

159) Nguyễn-Văn-Phảy

160) Huỳnh-Xuân-Phong

161) Ngô-Phúc

162) Phạm-Trọng-Phúc

163) Phạm-Văn-Phùng

164) Đặng-Thanh-Phước

165) Nguyễn-Tấn-Phương

166) D-Quang

167) Dương-Doãn-Quang

168) Nguyễn-Ngọc-Quang        

169) Nguyễn-Xuân-Quang

170) Vương-Đình-Quảng

171) Lý-Văn-Qui

172) Lê-Đình-Quý        

173) Trần-Văn-Quý

174) Đinh-Nhựt-Quý

175) Nguyễn-Văn-Quý

176) Phan-Nguyên-Quyền

177) Nguyễn-Hưng-Quyền        

178) Bùi-Văn-Rê          

179) Nguyễn-Văn-Rọt  

180) Phạm-Văn-Sang

181) Nguyễn-Thanh-Sang

182) Nguyễn-Văn-Sang

183) Nguyễn-Ngọc-Sáng

184) Ngô-Minh-Sơn

185) Vũ-Hoàng-Sơn     

186) Trần-Ngọc-Sơn

187) Nguyễn-Văn-Sĩ

188) Nguyễn-Anh-Sương

189) Phạm-Văn-Sửu

190) Cao-Hữu-Tài

191) Phùng-Quốc-Tài   

192) Võ-Thanh-Tam

193) Lương-Ngọc-Tâm

194) Nguyễn-Công-Tâm

195) Phạm-Hoàn-Tân

196) Nguyễn-Tấn         

197) Phạm-Khương-Tây

198) Trần-Văn-Thái

199) Bùi-Quang-Thanh

200) Phan-Thế-Thanh   

201) Trần-Quốc-Thanh

202) Bùi-Tấn-Thanh

203) Nguyễn-Văn-Thành ( 71A )

204) Nguyễn-Văn-Thành ( 70A )

205) Tăng-Kim-Thành

206) Bùi-Văn-Thảo

207) Cao-Phương-Thảo

208) Lê-Hồng-Thắm

209) Hà-Thanh-Thắng

210) Nguyễn-Văn-Thân

211) Trần-Hữu-Thệ      

212) Vũ-Văn-Thiện

213) Nguyễn-Đỗ-Thiện

214) Nguyễn-Văn-Thiệt

215) Võ-Trường-Thọ    

216) Trương-Bửu-Thọ

217) Nguyễn-Thanh-Thu           

218) Châu-Hồng-Thu

219) Nguyễn-Hoàng-Thu

220) N V-Thu              

221) Trần-Văn-Thuận

222) Trần-Vĩnh-Thuận

223) Đặng-Ngọc-Thuần

224) Hoàng-Văn-Thuyết

225) Đinh-Trương-Tiến

226) Nguyễn-Đăng-Tiến           

227) Tô-Tiếng

228) Huỳnh-Văn-Tính

229) Nguyễn-Ngọc-Toàn

230) Nguyễn-Kim-Trọng

231) Phạm-Văn-Trúc

232) Đoàn-Chánh-Trung

233) Trần-Đắc-Trung

234) Châu-Thanh-Trung

235) Cao-Minh-Trung

236) Nguyễn-Văn-Truyền

237) Đặng-Thành-Trước

238) Nguyễn-Anh-Tú

239) Trần-Cẩm-Tú

240) Cao-Thanh-Tùng

241) Trịnh-Tùng

242) Trần-Quốc-Tuấn

243) Lê-Anh-Tuấn

244) Lê-Văn-Tuấn

245) L V-Tuấn

246) Đặng-Công-Túy

247) Nguyễn-Văn-Tư

248) Ao-Văn-Tư

249) Nguyễn-Xuân-Tương

250) Chiêm-Văn-Tỷ

251) Trương-Văn-Ướt  

252) Võ-Đại-Vạn

253) Triệu-Hữu-Văn

254) Huỳnh-Văn-Vân

255) Trần-Thanh-Vân

256) Ngô-Tùng-Việt

257) Trương-Văn-Việt

258) Nguyễn-Huy-Việt

259) Nguyễn-Hoàng-Việt

260) Đinh-Hưng-Việt

261) Trịnh-Đình-Vinh   

262) Nguyễn-Phúc-Xa

263) Nguyễn-Văn-Xuân

264) Nguyễn-Xuân

265) Nguyễn-Văn-Xuân

266) Nguyễn-Hồng-Xuân

267) Đinh-Văn-Yên

268) Đào-Quang-Yêm

Danh-Sách Khoá 25 : ( Đệ Tam Dương Cưu)

1) Huỳnh-Văn-Ẩn        

2) Mã-Toàn-An

3) Huỳnh-Ngọc-Ẩn      

4) Đào-Bảo-Anh

5) Phạm-Ngọc-Anh      

6) Trần-Gia-Bảo

7) Nguyễn-Văn-Bảy     

8) Nguyễn-Văn-Bằng

9) Mai-Chính-Bình        

10) Nguyễn-Thanh-Bình

11) Mai-Văn-Bọt

12) Nguyễn-Văn-Bự

13) Đồng-Thanh-Bửu

14) Nguyễn-Văn-Bửu

15) Trần-Công-Chánh

16) Phạm-Ngọc-Chất

17) Đinh-Phan-Châu

18) Phan-Hồng-Châu

19) Trần-Ngọc-Châu

20) Đặng-Hanh-Châu

21) Nguyễn-Hữu-Chí

22) Mai-Xuân-Chính     

23) Lê-Văn-Chương

24) Lý-Cẩm-Chiêu

25) Đặng-Phú-Công     

26) Lê-Văn-Cúc ( 71A 707.415 )

27) Lê-Văn-Cúc ( 71A707.421 )

28) Ung-Văn-Của

29) Lê-Phúc-Cường     

30) Võ-Thành-Danh     

31) Huỳnh-Côn-Danh   

32) Nguyễn-Tiến-Dân

33) Đỗ-Quang-Dũng

34) Lê-Văn-Dũng

35) Nguyễn-Hoàng-Dũng          

36) Lâm-Trương-Quốc-Dũng

37) Duy-Văn-Dũng

38) Huỳnh-Bá-Dương   

39) Nguyễn-Văn-Đàng

40) Phạm-Văn-Đắc

41) Trần-Xuân-Đức

42) Đặng-Vũ-Đức        

43) Trần-Đức   

44) Nguyễn-Bỉnh-Đức

45) Lương-Minh-Đức

46) Nguyễn-Tấn-Hải

47) Nguyễn-Văn-Hải

48) Trịnh-Khoát-Hai

49) Nguyễn-Văn-Hằng 

50) Nguyễn-Anh-Hào

51) Trảo-Văn-Hiếu       

52) Nguyễn-Tùng-Hiệp

53) Trần-Văn-Hiến       

54) Nguyễn-Quí-Hợi

55) Đỗ-Thế-Hoà

56) Trần-Đình-Hoà       

57) Nhan-Văn-Hoàng   

58) Đỗ-Văn-Hoàng      

59) Bùi-Mạnh-Hoành

60) Trần-Đình-Hồng     

61) Tạ-Thiên-Hùng       

62) Nguyễn-Tấn-Hùng

63) Nguyễn-Quý-Hùng

64) Nguyễn-Xuân-Hùng

65) Lê-Hùng    

66) Nguyễn-Tấn-Hùng

67) Trần-Thế-Hưng      

68) Lê-Văn-Hùng

69) Cao-Mạnh-Hùng

70) Nguyễn-Phi-Hùng

71) Châu-Huyết-Hùng  

72) Nguyễn-Văn-Hùng

73) Võ-Phi-Hùng

74) Nguyễn-Thái-Hùng

75) Đặng-Ngọc-Huờn

76) Vũ-Tiến-Hưng

77) Nguyễn-Ngọc-Hương         

78) Nguyễn-Thiện-Khánh

79) Lê-Đắc-Khánh

80) Nguyễn-Đức-Khiêm

81) Lê-Văn-Kim

82) Phạm-Văn-Lạc      

83) Phạm-Văn-Lăng     

84) Lê-Quang-Liệt

85) Vũ-Linh     

86) Ninh-Quang-Lợi

87) Trần-Văn-Lộc        

88) Phạm-Xuân-Lộc     

89) Nguyễn-Đắc-Lộc

90) Phạm-Luôn

91) Nguyễn-Lô

92) Nguyễn-Hữu-Lợi    

93) Trần-Phi-Long

94) Nguyễn-Thanh-Long

95) Trần-Kim-Long      

96) Khổng-Thanh-Long

97) Trần-Thăng-Long

98) Bạch-Thái-Long

99) Nguyễn-Miền

100) Nguyễn-Hoàng-Minh        

101) Đinh-Sơn-Minh

102) Trần-Kim-Mừng

103) Nguyễn-Văn-Mỹ

104) Lê-Hoàng-Nam

105) Bùi-Đức-Nghiã     

106) Trần-Đình-Ngọc

107) Đỗ-Đức-Ngự

108) Võ-Văn-Nhàn

109) Lý-Nhuê

110) Nguyễn-Hữu-Nhị

111) Trịnh-Văn-Nhơn

112) Đặng-Văn-Phát

113) Sử-Chấn-Phát

114) Nguyễn-Đăng-Phong        

115) Nguyễn-Văn-Phơi 

116) Lê-Thái-Phúc       

117) Vũ-Thiên-Phúc     

118) Phạm-Hữu-Phúc

119) Nguyễn-Kỳ-Phùng

120) Mai-Hữu-Phước

121) Trần-Đăng-Phước

122) Ngô-Đình-Phước

123) Tạ-Duy-Phương

124) Phan-Thanh-Quang

125) Vũ-Nhật-Quang

126) Đào-Văn-Quảng

127) Nguyễn-Trọng-Quốc         

128) Nguyễn-Văn-Sáu

129) Trương-Văn-Song

130) Lê-Hồng-Sơn       

131) Huỳnh-Chí-Sơn

132) Bảo-Sự                

133) Huỳnh-Tài

134) Đỗ-Văn-Tâm        

135) Đặng-Phúc-Tân

136) Huỳnh-Văn-Tân

137) Trần-Ngọc-Tân

138) Phạm-Hữu-Thanh

139) Trần-Phú-Thảnh

140) Võ-Văn-Thanh

141) Bùi-Đức-Thành

142) Phạm-Văn-Thành ( 71A )

143) Phạm-Văn-Thành ( 72A )

144) Nguyễn-Chí-Thành

145) Ngô-Văn-Thành

146) Đới-Văn-Thảo      

147) Nguyễn-Trọng-Thiệp

148) Nguyễn-Ngọc-Thìn

149) Trần-Đăng-Thọ

150) Lê-Nguơn-Thọ

151) Nguyễn-Văn-Thu

152) Nguyễn-Văn-Thuận

153) Đồng-Văn-Thuận

154) Trần-Phước-Thuận

155) Vũ-Khắc-Tiến

156) Nguyễn-Văn-Tiên

157) Đặng-Văn-Tiến

158) Lê-Xuân-Tòng

159) Phạm-Ngọc-Trai

160) Trần-Minh-Triết

161) Phạm-Công-Trĩ

162) Đỗ-Đức-Trí          

163) Nguyễn-Hữu-Trí

164) Quách-Long-Trí

165) Lê-Quang-Trí       

166) Nguyễn-Minh-Trọng         

167) Đặng-Huỳnh-Trung           

168) Nguyễn-Đức-Tuấn

169) Mai-Anh-Tuấn      

170) Nguyễn-Hữu-Tuấn

171) Phan-Minh-Tuấn

172) Lý-Văn-Lâm-Tuấn

173) Đặng-Tư

174) Bùi-Văn-Tường    

175) Nguyễn-Hữu-Tưởng

176) Hoắc-Vận

177) Võ-Thiện-Văn      

178) Lê-Văn-Vệ

179) Nguyễn-Hữu-Việt

180) Nguyễn-Anh-Việt

181) Nguyễn-Hoàng-Việt          

182) Mai-Thế-Vinh       

183) Nguyễn-Thế-Vinh

184) Hứa-Hoàng-Vĩnh

185) Nguyễn-Thanh-Xuân         

186) Âu-Dương-Xuyên

Danh-Sách Khoá 26 : ( Đệ Tam Kim Ngưu) ( Còn bổ-túc )

1) Võ-Hoàng-An

2) Nguyễn-Duy-Anh

3) Nguyễn-Ngọc-Ánh

4) Nguyễn-Anh

5) Đặng-Văn-Anh        

6) Trần-Quốc-Bảo

7) Trần-Văn-Bình

8) Châu-Quốc-Bửu

9) Trần-Đình-Căn

10) Nguyễn-Công-Chánh

11) Lê-Quý-Châu

12) Nguyễn-Viết-Châu

13) Lê-Đình-Chí

14) Lê-Thiện-Chín

15) Nguyễn-Văn-Cơ

16) Võ-Văn-Công        

17) Nguyễn-Văn-Của

18) Phạm-Hùng-Cường

19) Phạm-Mạnh-Cường

20) Đặng-Công-Danh

21) Đoàn-Minh-Dũng

22) Lê-Anh-Dũng

23) Huỳnh-Hữu-Đáng

24) Nguyễn-Văn-Đáng

25) Trần-Văn-Đại

26) Nguyễn-Văn-Đào

27) Trương-Bá-Đạt      

28) Hồ-Ngọc-Đẹp        

29) Nguyễn-Văn-Điều

30) Vũ-Hữu-Định

31) Phạm-Đắc-Đức

32) Trần-Minh-Giám

33) Nguyễn-Bằng-Giang

34) Phạm-Phú-Giao      

35) Đỗ-Mạnh-Hà

36) Nguyễn-Thanh-Hà

37) Nguyễn-Văn-Hà     

38) Lê-Trọng-Hải

39) Nguyễn-Hồng-Hải

40) Nguyễn-Văn-Hào

41) Tống-Như-Hiền      

42) Phạm-Trọng-Hiệp

43) Huỳnh-Văn-Hiếu

44) Nguyễn-Văn-Hồ

45) Phạm-Công-Hoàng 

46) Phan-Gia-Hội

47) Nguyễn-Hồng

48) Trương-Quang-Huê

49) Ngô-Doãn-Hùng

50) Nguyễn-Mạnh-Hùng

51) Bùi-Quốc-Hưng

52) Thái-Hoàng-Hưng

53) Tô-Vũ-Khắc          

54) Nguyễn-Như-Khải

55) Nguyễn-Văn-Khanh

56) Trần-Hoàng-Khanh

57) Vũ-Ngọc-Khuê

58) Nguyễn-Binh-Kiên

59) Vũ-Văn-Kính         

60) Phạm-Đình-Lại       

61) Lương-Mậu-Lâm

62) Phạm-Thanh-Liêm

63) Nguyễn-Thanh-Liêm

64) Trần-Thanh-Liêm

65) Yong-Phi-Liệt

66) Nguyễn-Minh-Lịch

67) Vũ-Văn-Lộ

68) Bùi-Tấn-Lộc

69) Hoàng-Gia-Lộc

70) Lâm-Tấn-Lộc

71) Nguyễn-Lợi

72) Nguyễn-Văn-Lợi    

73) Lâm-Ngọc-Lợi

74) Trần-Ngọc-Long

75) Lê-Minh-Lương

76) Ngô-Đình-Lương

77) Đỗ-Hữu-Lượng

78) Lại-Văn-Lý

79) Đỗ-Thanh-Mai

80) Trần-Văn-Mão

81) Nguyễn-Một

82) Nguyễn-Văn-Minh

83) Nguyễn-Văn-Muốn

84) Huỳnh-Văn-Mười

85) Đỗ-Oanh

86) Nguyễn-Bá-Phi

87) Nguyễn-Văn-Pho

88) Lê-Quốc-Phong

89) Đỗ-Như-Quang      

90) Ngô-Hữu-Thu-Quang         

91) Trần-Văn-Quang

92) Lê-Văn-Quý

93) Nguyễn-Văn-Quỳnh

94) Đỗ-Hữu-Sáng

95) Lê-Hoàng-Sơn

96) Lê-Thanh-Sơn        

97) Võ-Minh-Sum

98) Lê-Thành-Sử

99) Đinh-Tấn-Tâm

100) Nguyễn-Tâm

101) Trần-Minh-Tâm

102) Huỳnh-Hồng-Tân

103) Ngô-Đình-Tân

104) Nguyễn-Kim-Tân

105) Võ-Ngọc-Tân       

106) Vương-Minh-Tân

107) Lâm-Ngọc-Thạch 

108) Đặng-Ngọc-Thạch

109) Tạ-Huy-Thái

110) Lê-Văn-Thân

111) Lê-Quốc-Thắng

112) Phan-Ngọc-Thanh

113) Nguyễn-Công-Thanh

114) Vũ-Đình-Thanh

115) Nguyễn-Văn-Thanh

116) Lê-Ngọc-Thanh

117) Phạm-Văn-Thanh

118) Lưu-Văn-Thành    

119) Châu-Chí-Thành

120) Đỗ-Ngọc-Thạnh

121) Nguyễn-Nhâm-Thìn

122) Huỳnh-Thọ

123) Võ-Phước-Thọ     

124) Đoàn-Chí-Thông

125) Trần-Nhật-Thông

126) Nguyễn-Thu

127) Dương-Văn-Thu

128) Nguyễn-Văn-Thuận

129) Nguyễn-Văn-Thuận

130) Nguyễn-Hiếu-Thuận

131) Trương-Đình-Thực

132) Nguyễn-Văn-Thực

133) Nguyễn-Nam-Tiến

134) Đỗ-Văn-Thương

135) Nguyễn-Tích

136) Đỗ-Thanh-Tiến     

137) Nguyễn-Tấn-Tỏ

138) Nguyễn-Công-Toại

139) Cung-Bảo-Toàn

140) Lê-Mậu-Tôn

141) Phạm-Văn-Tốt     

142) Ngô-Hưng-Trí

143) Huỳnh-Minh-Trí    

144) Lê-Minh-Triều      

145) Vũ-Đình-Trụ

146) Nguyễn-Hoàng-Trung

147) Huỳnh-Văn-Trung

148) Thái-Nhĩ-Trung

149) Nguyễn-Quang-Trung

150) Nguyễn-Trung      

151) Mai-Hiếu-Trực

152) Đỗ-Bá-Trung

153) Lê-Văn-Tuấn

154) Nguyễn-Túc

155) Lê-Hoàng-Tùng

156) Nguyễn-Văn-Tư

157) Trần-Quang-Tư

158) Văn-Trung-Tước

159) Đỗ-Phú-Tủy

160) Nguyễn-Văn-Vân

161) Nguyễn-Viên

162) Lương-Thái-Vĩnh

163) Hồ-Bảo-Vĩnh

164) Lý-Anh-Vinh

165) Nguyễn-Văn-Vinh

166) Nguyễn-Trung-Vinh

167) Phạm-Quang-Vinh

168) Phạm-Huyền-Vũ

169) Phạm-Văn-Xạ      

170) Ngô-Văn-Xem

171) Trần-Văn-Xẻn

172) Nguyễn-Văn-Xuân ( 2222 )

173) Nguyễn-Văn-Xuân

174) Vương-Khắc-Yên

Danh-Sách Khoá 1 OCS :

1) Nguyễn-Kim-Bửu

2) Nguyễn-Văn-Cân

3) Nguyễn-Trí-Can

4) Nguyễn-Ngọc-Cảnh

5) Nguyễn-Trung-Chánh

6) Cao-Văn-Chiểu

7) Nguyễn-Văn-Cười

8) Lê-Thế-Di

9) Đỗ-Đình-Dũng

10) Trần-Ngọc-Điệp

11) Bùi-Đại-Đức

12) Hồ-Ngọc Minh-Đức

13) Võ-Khắc-Hạnh

14) Võ-Tấn-Hảo

15) Tôn-Thất-Hiệp

16) Nguyễn-Mạnh-Hùng

17) Nguyễn-Vũ-Hùng

18) Vũ-Mạnh-Hùng

19) Nguyễn-Minh-Hựu

20) Huỳnh-Kim-Khanh

21) Trần-Thế-Khoa

22) Trần-Văn-Lai

23) Hồ-Văn-Lạng

24) Trương-Văn-Liêm

25) Hoàng-Phi-Long

26) Phạm-Văn-Luông

27) Đỗ-Quang-Minh

28) Trương-Văn-Nam

29) Lê-Minh-Ngọc

30) Lê-Thành-Ngọc

31) Đinh-Văn-Nguyên

32) Nguyễn-Thanh-Nhã

33) Lê-Công-Nhạn

34) Võ-Thống-Nhứt

35) Nguyễn-Minh-Phụng

36) Lê-Xuân-Quang

37) Trần-Minh-Quang

38) Phạm-Văn-Sơn

39) Trương-Hữu-Tài

40) Bùi-Văn-Thanh

41) Lê-Tích-Thiện

42) Ngô-Đình-Thuận

43) Phan-Kế-Toại

44) Trương-Vĩnh-Tường

45) Huỳnh-Đức-Trung

46) Lê-Quang-Trung

47) Đỗ-Trung

48) Nguyễn-Quang-Trúc

49) Nguyễn-Ngọc-Vui

50) Nguyễn-Hồng-Vũ

51) Nguyễn-Thái-Xuyên

Danh-Sách Khoá 2 OCS :

1) Trương-Văn-Anh

2) Nguyễn-Ánh

3) Trần-Ngọc-Ánh

4) Thiềm-Văn-Ba

5) Nguyễn-Vĩnh-Bình

6) Phạm-Văn-Bình

7) Thái-Văn-Bình

8) Trần-Đình-Cát

9) Bùi-Huy-Châu

10) Trần-Huy-Chương

11) Nguyễn-Hùng-Cường

12) Vũ-Lê-Dân

13) Nguyễn-Bình-Du

14) Trần-Đức-Dụ

15) Lý-Hồng-Đào

16) Nguyễn-Định

17) Huỳnh-Bang-Gia

18) Nguyễn-Ngọc-Hiền

19) Hà-Xuân-Hồng

20) Trần-Bách-Hợp

21) Cao-Bích Quốc-Huy

22) Nguyễn-Công-Khai

23) Đinh-Sơn-Khải

24) Đỗ-Như-Kim

25) Nguyễn-Xuân-Kỷ

26) Nguyễn-Văn-Lành

27) Bùi-Đức-Lịch

28) Phan-Xuân Trung-Lưu

29) Nguyễn-Văn-Mẫn

30) Nguyễn-Văn-Minh

31) Huỳnh-Hữu-Nam

32) Hoàng-Ngạc

33) Đinh-Văn-Nhu

34) Thân-Văn-Phan

35) Lê-Quang-Phúc

36) Đặng-Văn-Phúc

37) Dương-Quốc-Phục

38) Nguyễn-Phước

39) Bùi-Thạch Trường-Sơn

40) Ngô-Văn-Sơn

41) Phạm-Duy-Tạo

42) Nguyễn-Quốc-Thành

43) Lê-Tín-Thành

34) Nguyễn-Văn-Thạnh

45) Phạm-Kim-Thiếp

46) Châu-Văn-Trí

Danh-Sách Khoá 3 OCS :

1) Phạm-Văn-Bá

2) Võ-Thành-Châu

3) Nguyễn-Trọng-Chiếu

4) Nguyễn-Hữu-Cho

5) Ngô-Văn-Chuân

6) Phan-Văn-Chuẩn

7) Nguyễn-Thành-Công

8) Lê-Thành-Dinh

9) Nguyễn-Quốc-Định

10) Lê-Tế-Đô

11) Cao-Thế-Đường

12) Nguyễn-Văn-Hoá

13) Nguyễn-Đức-Ích

14) Vũ-Gia-Khánh

15) Nguyễn-Quang-Lãm

16) Sơn-Lành

17) Nguyễn-Oanh-Liệt

18) Trần-Xuân-Lợi

19) Quý-Nguyện

20) Nguyễn-Văn-Nhàn

21) Huỳnh-Văn-Phát

22) Dương-Phi

23) Tôn-Thất-Phước

24) Nguyễn-Trọng-Quýnh

25) Vũ-Tiến-Tạ

26) Phạm-Chiến-Thắng

27) Võ-Thắng

28) Nguyễn-Mỹ-Thanh

29) Quách-Đăng-Thành

30) Nguyễn-Văn-Thiều

31) Nguyễn-Thái-Truyền

32) Vũ-Đức-Vàn

33) Nguyễn-Toàn-Vẹn

34) Hoàng-Quốc-Việt

35) Nguyễn-Nam-Việt

36) Nguyễn-Văn-Việt

Danh-Sách Khoá 4 OCS :

1) Đoàn-Viết-Ất

2) Nguyễn-Tuấn-Bình

3) Huỳnh-Minh-Chương

4) Phạm-Văn-Chuân

5) Khổng-Hữu-Chung

6) Nguyễn-Cư

7) Nguyễn-Thành-Công

8) Nguyễn-Văn-Duy

9) Nguyễn-Huy-Đản

10) Ngô-Đạo

11) Huỳnh-Bình-Đức

12) Nguyễn-Văn-Hiếu

13) Nguyễn-Việt-Hoài

14) Đỗ-Hữu-Huân

15) Đỗ-Thân-Hùng

16) Hồ-Văn-Hùng

17) Nguyễn-Hữu-Lộc

18) Trần-Văn-Luận

19) Trần-Thanh-Minh

20) Nguyễn-Hồng-Nhạn

21) Đoàn-Minh-Nhựt

22) Trần-Văn-Nhơn

23) Trịnh-Hoài-Phương

24) Lê-Vĩnh-Phúc

25) Nguyễn-Hồng-Quang

26) Nguyễn-Duy-Tân

27) Phạm-Gia-Thắng

28) Trần-Hữu-Thọ

29) Trần-Đức-Thịnh

30) Đỗ-Song-Thu

31) Trần-Kim-Tiến

32) Nguyễn-Đình-Tuân

33) Nguyễn-Thanh-Tùng

Danh-Sách Khoá 5 OCS :

1) Mai-Công-An

2) Nguyễn-Văn-Ba

3) Lợi-Bá-Chảy

4) Nguyễn-Khắc-Chinh

5) Đào-Văn-Chung

6) Ngô-Thụy-Chương

7) Nguyễn-Đức-Cường

8) Nguyễn-Nhật-Cường

9) Lý-Thy-Dân

10) Ngô-Thế-Di

11) Nguyễn-Văn-Đài

12) Trương Văn Di

13) Đường-Hào

14) Nguyễn-Anh-Đào

15) Phạm-Hữu-Hợp

16) Hồ-Đắc-Hiển

17) Nguyễn-Mạnh-Hùng

18) Nguyễn-Trung-Hùng

19) Nguyễn-Ngọc-Lễ

20) Nguyễn-Như-Lâm

21) Trần-Văn-Lý

22) Nguyễn-Quang-Linh

23) Giang-Nam

24) Bùi-Danh-Môn

25) Đoàn-Khắc-Ninh

26) Nguyễn-Văn-Nghiêm

27) Tạ-Quốc-Quang

28) Trần-Ngọc-Ninh

29) Đoàn-Minh-Sang

30) Nguyễn-Văn-Quỳnh

31) Trần-Thái

32) Lưu-Hiền-Sĩ

33) Phạm-Văn-Thương

34) Phạm-Trường-Thọ

35) Mạc-Văn-Vĩnh

36) Ngô-Quang-Tụng

Danh-Sách Khoá 6 OCS :

1) Danh-Âu

2) Đỗ-Khang-An

3) Nguyễn-Minh-Ánh

4) Nguyễn-Ngọc-Bạch

5) Nguyễn-Cần

6) Bạch-Văn-Cao

7) Trương-Cao-Chánh

8) Trần-Ngọc-Diệp

9) Nguyễn-Chu Trương-Dực

10) Nguyễn-Trần-Đàm

11) Võ-Văn-Đô

12) Vạn-Đại-Hồng

13) Chương-Nam-Hoà

14) Hà-Văn-Hùng

15) Vũ-Sơn-Hùng

16) Nguyễn-Mạnh-Hùng

17) Tô-Văn-Hường

18) Phạm-Ngọc-Kính

19) Nguyễn-Công-Liêm

20) Đỗ-Kỳ-Nam

21) Nguyễn-Ngọ

22) Nguyễn-Trung-Nghiã

23) Trần-Ngọc-Phước

24) Nguyễn-Hữu-Phú

25) Trịnh-Triệu-Phú

26) Nguyễn-Hồng-Quang

27) Lê-Minh-Sang

28) Nguyễn-Thận

29) Lê-Sỹ-Thắng

30) Nguyễn-Ngọc Thạch-Tony

31) Dương-Kỳ-Thanh

32) Nguyễn-Mạnh-Thế

33) Vũ-Đình-Thọ

34) Lê-Đức-Thuận

35) Cao-Đăng-Toàn

36) Phạm-Gia-Tường

37) Nguyễn-Thành-Trạng

38) Nguyễn-Kiên-Trung

39) Vũ-Đình-Vận

Danh-Sách Khoá 7 OCS :

1) Phan-Thiện-Ái

2) Võ-Quang-Ấn

3) Trần-Văn-Báu

4) Trần-Công Cao-Cát

5) Lê-Á-Châu

6) Nguyễn-Ngọc-Chay

7) Trần-Minh-Dũng

8) Nguyễn-Văn-Điềm

9) Đinh-Thế-Hiển

10) Triệu-Chí-Hoa

11) Phan-Văn-Hoàng

12) Trần-Văn-Học

13) Trương-Bửu-Huê

14) Nguyễn-Văn-Khá

15) Tăng-Hoàng-Khanh

16) Nguyễn-Ngọc-Lân

17) Mai-Văn-Liễu

18) Nguyễn-Hữu-Lộc

19) Nguyễn-Thanh-Lịch

20) Nguyễn-Văn-Lương

21) Trần-Văn-Minh

22) Trần-Quang-Phước

23) Phan-Văn-Quang

24) Đoàn-Văn-Quý

25) Hồ-Văn-Rẫm

26) Trần-Đình-Ruy

27) Đồng-Phú-Thịnh

28) Nguyễn-Khắc-Thịnh

29) Lê-Văn-Thu

30) Nguyễn-Thế-Thuật

31) Võ-Anh-Tuấn

Danh-Sách Khoá 8 OCS :

1) Võ-Quốc-Dân

2) Nguyễn-Bảo-Đồng

3) Hà-Văn-Hải

4) Nguyễn-Đức-Hải

5) Trần-Văn-Hanh

6) Nguyễn-Hạt

7) Nguyễn-Văn-Hiệu

8) Trần-Thiện-Hoài

9) Đặng-Thế-Hùng

10) Phạm-Minh-Hùng

11) Phan-Tấn-Hùng

12) Trần-Chí-Hùng

13) Hồ-Văn-Khả

14) Lê-Chí-Kỉnh

15) Phạm-Hoàng-Kỳ

16) Trần-Ngọc-Lập

17) Nguyễn-Lợi

18) Nguyễn-Đức-Mău

19) Đặng-Văn-Minh

20) Trần-Văn-Minh

21) Hà-Đăng-Ngân

22) Trần-Ngọc-Phiên

23) Lê-Bá-Phước

24) Cao-Văn-Quân

25) Nguyễn-Văn-Sô

26) Diệp-Xuân-Sơn

27) Mạc-Đăng-Sơn

28) Trương-Trọng-Thắng

29) Nguyễn-Văn-Thiết

30) Huỳnh-Đình-Thường

31) Lâm-Trí-Thức

32) Đặng-Văn-Toản

33) Đàm-Đình-Tuấn

34) Lê Quốc Tuấn

35) Đàm-Văn-Xin

35) Hoàng-Phùng-Vượng

Danh-Sách Khoá 9 OCS :

1) Lê-Văn-Bé

2) Lâm-Bính-Cang

3) Nguyễn-Thế-Cảnh

4) Đoàn-Cát

5) Phạm-Ngọc-Danh

6) Nguyễn-Tấn-Đạt

7) Phạm-Ngọc-Đông

8) Nguyễn-Văn-Giản

9) Trần-Nguyên-Hiệp

10) Đan-Trung-Hiếu

11) Nguyễn-Thái-Hùng

12) Phạm-Ngọc-Kháng

13) Hà-Duyên-Khánh

14) Nguyễn-Minh

15) Nguyễn-Thế-Minh

16) Trịnh-Đình-Nguyên

17) Trương-Như-Quảng

18) Ngô-Văn-Quế

19) Bùi-Văn-Quý

20) Thái-Minh-Tâm

21) Phan-Thái

22) Hoàng-Văn-Thuận

23) Đoàn-Đình-Thủy

24) Vũ-Đình-Tước

25) Vũ-Ngọc-Trường

26) Trần-Quốc-Việt

27) Đỗ-Trọng-Vinh

Danh-Sách Khoá 10 OCS :

1) Nguyễn-Thi-Ân

2) Nguyễn-Văn-Cư

3) Phạm-Đình-Công

4) Thái-Văn-Cửu

5) Tống-Ngọc-Diệp

6) Kiều-Đàm

7) Lê-Đình-Đăng

8) Lê-Minh-Đạo

9) Nguyễn-Sơn-Hà

10) Trần-Văn-Hai

11) Phùng-Thiện-Han

12) Đỗ-Xuân-Hoà

13) Nguyễn-Ngọc-Hiếu

14) Diệp-Hữu-Nghiã

15) Nguyễn-Văn-Nhiều

16) Trương-Chấn-Phát

17) Lưu-Trung-Quang

18) Lê-Sỹ-Quý

19) Nguyễn-Y-Sĩ

20) Ngô-Xuân-Tâm

21) Trần-Quốc-Thạnh

22) Lê-Hồng-Thanh

23) Phạm-Văn-Thanh

24) Trần-Thi

25) Ngô-Duy-Tuấn

( Trương-Vỹ-Minh ) chưa xác-định khoá

Danh-Sách Khoá 11 OCS :

1) Trần-Tiến-An

2) Nguyễn-Văn-Bông

3) Bạch-Quang-Cậy

4) Nguyễn-Đại Ngọc-Châu

5) Trần-Nhuận-Chi

6) Nguyễn-Ngọc-Chót

7) Nguyễn-Cổn

8) Lê-Đức-Công

9) Lê-Ngọc-Đảnh

10) Mã-Đức

11) Nguyễn-Hữu-Hạnh

12) Nguyễn-Mạnh-Hùng

13) Phạm-Quang-Huy

14) Nguyễn-Đình-Lộc

15) Hoàng-Mộng-Lương

16) Trần-Hải-Mank

17) Trần-Thế-Mỹ

18) Huỳnh-Trọng-Nghiã

19) Huỳnh-Nhạc

20) Nguyễn-Thượng-Nhơn

21) Nguyễn-Văn-Sĩ

22) Nguyễn-Văn-Thường

23) Huỳnh-Thiện-Toàn

24) Đỗ-Anh-Tuấn

25) Huỳnh-Quốc-Tuấn

26) Vũ-Tuấn

27) Nguyễn-Hữu-Tường

28) Trần-Vinh

29) Nguyên-Xuân-Vời

30) Đinh-Sỹ-Vụ

Danh-Sách Khoá 12 OCS : ( còn có 2 SQ OCS chưa xác-định được khoá nào )

1) Phạm-Hồng-Ân

2) Trần-Minh-Châu

3) Lưu-Lập-Chí

4) Trần-Anh-Dũng

5) Nguyễn-Văn-Đức

6) Phạm-Đình Nhật-Hà

7) Đào-Hải

8) Phan-Văn-Hợp

9) Nguyễn-Khắc-Huệ

10) Chu-Văn-Hùng

11) Mộng-Kiến-Hưng

12) Hoàng-Lê

13) Vũ-Thế-Lực

14) Nguyễn-Phước Bảo-Lương

15) Nguyễn-Ngạch

16) Nguyễn-Trọng-Nghiã

17) Đỗ-Đăng-Phong

18) Trần-Quan

19) Nguyễn-Văn-San

20) Ngô-Văn-Sơn

21) Nguyễn-Ngọc-Thông

22) Phạm-Văn-Tiến

23) Đinh-Quang-Trật

24) Đỗ-Anh-Tuấn

25) Trần-Nguyên-Tuấn

26) Hương-Thanh-Tuyền

27) Nguyễn-Phúc-Ty

( Nguyễn-Tấn-Tài ) chưa xác định khoá

Danh-Sách Khoá IOCS : ( Còn bổ-túc thêm cho đủ số 22 người )

1) - - Bình

2) - - Châu

3) Phó-Thành-Đường

4) - - Long ( Tr/Úy CB )

5) Tất-Ngưu

6) Nguyễn-Kim-Phước

7) - - Phước

8) - - Quới ( Tr/Úy CB )

9) Nguyễn-Bá-Thắng

10) Huỳnh-Vĩ-Thông

11) Trần-Minh-Trung

12) Huỳnh-Kim-Vân

Danh-Sách Sĩ-Quan/Đặc-Biệt :

Danh-Sách Khoá 1 Đặc-Biệt/SQHQ : :

1) Hồ-Sĩ Thư-Anh

2) Lê-Quang-Ánh

3) Nguyễn-Tấn-Bá

4) Bùi-Nguơn-Bảy

5) Nguyễn-Băn-Be

6) Trần-Văn-Bê

7) Trần-Văn-Bên

8) Hồ-Bền

9) Trần-Văn-Bi

12) Nguyễn-Văn-Bông

11) Lương-Quang-Bình

14) Trần-Văn-Cang

13) Huỳnh-Kim-Bửu

16) Trần-Minh-Châu

15) Trần-Minh-Chánh

18) Trần-Châu

17) Dương-Minh-Châu

20) Trần-Ngọc-Chót

19) Trần-Văn-Chói

22) Trần-Quang-Dân

21) Lê-Chí-Công

24) Nguyễn-Đại-Diêu

23) Bùi-Kế-Diễn

26) Lê-Văn-Duyên * ( Úc )

25) Nguyễn-Văn-Dinh

28) Quý-Điền

27) Nguyễn-Lê-Đại

30) Trần-Văn-Giác * ( Úc )

29) Phạm-Ngọc-Đỉnh

32) Lê-Văn-Hai

31) Lê-Duy-Hà

34) Hồ-Hoàng-Hảo

33) Đào-Hải

36) Trần-Văn-Hiếu

35) Liêu-Hàu

38) Ngô-Hoà

37) Đàm-Văn-Hoà

40) Phạm-Thái-Hoàng

39) Nguyễn-Đình-Hoà

42) Trần-Hữu-Hoàng

41) Phạm-Văn-Hoàng

44) Nguyễn-Văn-Huấn

43) Phạm-Văn-Hồng

46) Phạm-Ngọc-Hùng

45) Lê-Minh-Huệ

48) Nguyễn-Hữu

47) Trần-Hữu

50) Nguyễn-Văn-Khang

49) Trần-Đình-Khán

52) Phạm-Viết-Khiết

51) Đinh-Khang

54) Cù-Văn-Kiểm

53) Nguyễn-Văn-Khôi

56) Trần-Kiều

55) Cù-Văn-Kiểm

58) Nguyễn-Văn-Lạc

57) Đỗ-Như-Kim

60) Nguyễn-Tiến-Lể

59) Lê-Phước-Lâm

62) Nguyễn-Văn-Luân

63) Nguyễn-Tấn-Luật

64) Nguyễn-Đức-Lủy

65) Bùi-Đức-Ly

66) Trần-Ngọc-Mạnh

67) Huỳnh-Văn-Mẫn

68) Dương-Minh-Mẫn

69) Nguyễn-Văn-Minh

70) Lê-Tiết-Minh

71) Nguyễn-Văn-Môn

72) Trần-Ngọc-Mỹ

73) Lâm-Hoàng-Nam

74) Nguyễn-Văn-Nghiã * ( Úc )

75) Trần-Ứng-Nguyện

76) Dương-Tâm-Nhã

77) Trần-Công-Nhuận

78) Nguyễn-Minh-Phát

79) Nguyễn-Phước * ( Úc )

80) Huỳnh-Văn-Phước

81) Nguyễn-Xuân-Quang

82) Trần-Quân

83) Phạm-Phú-Quới

84) Lê-Ngọc-Quy

85) Đỗ-Văn-Quý

86) Nguyễn-San

87) Nguyễn-Văn-San

88) Trà-Trung-Sanh

89) Thiều-Quang-Tài

90) Ngô-Hữu-Tân

91) Cao-Sĩ-Tấn

92) Nguyễn-Thành-Tạo

93) Dương-Văn-Thắng

94) Phó-Thái-Thiêm

95) Hồ-Sĩ Thư-Thiên

96) Nguyễn-Mạnh-Thông

97) Trần-Thông

98) Đào-Hữu-Thu

99) Phan-Thuận

100) Hoàng-Đình-Tiến

101) Đinh-Quang-Tiến

102) Phan-Văn-Tiếp

103) Trần-Xuân-Tin

104) Lê-Bá-Tòng

105) Trương-Huỳnh-Triệu

106) Nguyễn-Ngọc-Trình

107) Nguyễn-Gia-Trọng

108) Đặng-Quang-Trung

109) Nguyễn-Văn-Trường

110) Huỳnh-Quốc-Tuấn

111) Phạm-Bá-Tuất

112) Đoàn-Quốc-Uy

113) Lai-Thanh-Văn

114) Hà-Văn-Vinh

115) Hà-Thế-Vinh

116) Nguyễn-Hảo-Vinh

117) Trương-Văn-Vũ

118) Đoàn-Văn-Xinh

119) Võ-Trường-Xuân

120) Đào Văn Diêu ( bổ túc 01-26-07)

121)Bùi Kim Hậu ( bổ túc 01-26-07)

122)Nguyễn thế Thuận( bổ túc 01-26-07)

123)Phạm Xuân TrìnhK1/70TD (bổ túc 01-29-07)

124)Bùi Đức Thông K6/69( bổ túc 01-29-07)

Danh-Sách Khoá 2 Đặc-Biệt/SQHQ :  ( Còn bổ-túc khi được thêm danh-sách )

1) Nguyễn-Văn-Ba

2) Nguyễn-Long-Hải

3) Lê-Bảo-Lâm
4) Nguyễn-Hữu Lâu

5) Lê-Minh-Nhựt

6) Phạm-Quốc-Nam

7) Lê-Văn-Sáu

8) Nguyễn-Tân

9) Lê-Thành-Tài

10) Nguyễn-Duy-Thành

Danh-Sách Khoá 3 Đặc-Biệt/SQHQ : : ( Còn bổ-túc khi được thêm danh-sách )

1) Lê-Phước-Thiệt

2) Nguyễn-Thành-Trí

3) Hồ-Văn Kỳ-Tường

4) Trần Minh Tâm ( Bồ Túc 04-02-07)

Danh-Sách Khoá 4 Đặc-Biệt/SQHQ : : ( Còn bổ-túc khi được thêm danh-sách )

1) Trần-Văn-Công

2) Trần-Bá-Trung

Danh-Sách Khoá 5 Đặc-Biệt/SQHQ : : ( Còn bổ-túc khi được thêm danh-sách )

1) Phan-Ngọc-Hùng

2) Lê-Đức-Phẩm

3) Hoàng-Như-Phổ

4) Nguyễn-Duy-Tân

5) Hồ-Đắc-Thắng

6) Mai-Vàng

7) Phan-văn- Cẩn

8) Lê-đức- Phẩm.

Danh sách  SQĐV/HQ khóa 2/71

1. Bùi KhắcNgọc

22.Nguyễn Văn Em

2. Cao Hoài Nam

23.Nguyễn VĂn Hiếu

3. Đỗ Hiếu Liêm

24.Nguyễn Văn Lâm

4. Dương Đình Nghĩa

25.Nguyễn Văn Thảo

5. Dương Kim Ánh

26.Nguyễn Văn Thư

6. Hà Hữu Thơ

27.Nguyễn Văn Thuận

7. Hồ Cảnh

28.Nhan Thế Sơn

8. Hồ Thanh Ngân

29.Phạm Quang Trung

9. Kiều Phú Hộ

30.Phạm Văn Bé

10.La Khuê Lộc

31.Phạm Văn Minh

11.Lâm Hữu Nghĩa

32.Sầm Công Sáng

12.Lê Văn Chỉ

33.Tăng Văn Triệu

13.Luu Tấn Phúc

34.Thái Minh Phong

14.Lý Kiêm Ly

35.Trần Bá Phước

15.Mai Xính Vân

36.Trần Đình Song

16. Ngô Hữu Phước

37.Trương Thế Hương

17.Ngô Quang Minh

38.Trương Văn Vinh

18.Ngô Văn Đức

39.Văn Văn Thanh

19.Ngô Văn Thúy

40.Vũ Kim Thanh

20.Nguyễn Bá Hạp

41.Vũ Minh Châu

21.Nguyễn Thiên Trạch

Ngành Cơ Khí

1. Hồ Ngọc Đa
3. Vũ Minh Tín

2. Trần Quang Minh

Danh-Sách Đặc-Biệt/SQHQ : chưa xác-định được khoá nào :

1) Trần-Hùng-Cận

2) Chu-Trần-Căn

3) Trần-Văn-Cang

4) Trần-Ngọc-Châu

5) nguyễn-Ngọc-Chót

6) Lê-Hữu-Đáng

7) Chương-Đê

8) Phạm-Ngọc-Đính

9) Nguyễn-Đo

10) Lê-Văn-Đôn

11) Nguyễn-Văn-Đồng

12) Lai-Hải-Đường

13) Trần-Trung-Dụ

14) Lê-Chí-Hân

15) Tôn-Cẩm-Hãu

16) Lê-Kiếm-Hiệp

17) Nguyễn-Lê-Hinh

18) Nguyễn-Viết-Hoàng

19) Hồ-Tấn-Hùng

20) Nguyễn-Văn-Huỳnh

21) Trần-Kiều

22) Nguyễn-Trọng-Lâm

23) Lưu-Văn-Lê

24) Dương-Hữu-Lễ

25) Phan-Đình-Linh

26) Nguyễn-Hữu-Lợi

27) Võ-Văn-Màng

28) Phạm-Mừng

29) Vĩnh-Nam

30) Phạm-Văn-Ngâu

31) Trần-Thành-Nghiệp

32) Phạm-Minh-Nhựt

33) Nghiêm-Văn-Nhịn

34) Đặng-Văn-Nhứt

35) Nguyễn-Văn-Định

36) Trần-Ngọc-On

37) Nguyễn-Đức-Phổ

38) Vũ-Văn-Phương

39) Phạm-Ngọc-Phụng

40) Vũ-Văn-Phú

41) Huỳnh-Hữu-Phúc

42) Võ-Hồng-Phúc

43) Võ-Linh-Phúc

44) Trần-Văn-Quan

45) Lê-Văn-Quá

46) Kha-Tu-Quốc

47) Văn-Nguyễn-Sở

48) Phạm-Văn-Sử

49) Lê-Văn-Tân

50) Lưu-Văn-Tân

51) Nguyễn-Thành-Tạo

52) Phạm-Phước-Tề

53) Lê-Chiến-Thắng

54) Vương-Bình-Thanh

55) Nguyễn-Văn-Thi

56) Trần-Thi

57) Nguyễn-Đắc-Thiện

58) Tống-Viết-Thuật

59) Lưu-Tiến

60) Lê-Quang-Tiệp

61) Nguyễn-Văn-Toàn

62) Nguyễn-Xuân-Tịnh

63) Ngô-Thành-Trí

64) Nguyễn-Văn-Triệu

65) Nguyễn-Đình-Trực

66) Song-Trịnh

67) Tô-Văn-Tuấn

68) Lê-Thành-Tuyên

69) Đinh-Quang-Viên

70) Dương-Văn-Vinh

71) Lê-Văn-Vinh

72) Vũ-Thế-Vinh

73) Nguyễn-Văn-Võ

74) Lê-Thanh-Xuân

VII - Tổng-Kết :

Khoá 1 :

9 Sinh-Viên

Khoá 2 :

13 Sinh-Viên

Khoá 3 :

23 Sinh-Viên

Khoá 4 :

15 Sinh-Viên

Khoá 5 :

23 Sinh-Viên

Khoá 6 :

21 Sinh-Viên

Khoá 7 :

46 Sinh-Viên

Khoá 8 :

50 Sinh-Viên

Khoá 9 :

38 Sinh-Viên

Khoá 10 :

55 Sinh-Viên

             Khoá 11 :              

81 Sinh-Viên

Khoá 12 :

103 Sinh-Viên

Khoá 13 :

87 Sinh-Viên

Khoá 14 :

100 Sinh-Viên

Khoá 15 :

107 Sinh-Viên

Khoá 16 :

133 Sinh-Viên

Khoá 17 :

136 Sinh-Viên

Khoá 18 :

95 Sinh-Viên

Khoá 19 :

272 Sinh-Viên

             Khoá 20 :              

261 Sinh-Viên

Khoá 21 :

269 Sinh-Viên

Khoá 22 :

248 Sinh-Viên

Khoá 23 :

282 Sinh-Viên

Khoá 24 :

279 Sinh-Viên

Khoá 25 :

186 Sinh-Viên

Khoá 26 :

182 Sinh-Viên

4 Khoá BREST : ( 7+11+12+5 = 35 )

35 Sinh-Viên

12 Khoá OCS và 1 Khoá IOCS :

439 Sinh-Viên

Khoá 1 : SQĐB

119 Sinh-Viên

Khoá 2 + Khoá 3 + Khoá 4 + Khoá 5 : ĐB/SQHQ ( còn bổ-túc )

97 Sinh-Viên

Tổng-Cộng : 3.803 Sinh-Viên SQHQ